Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Yob

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | |


- Chương 06 -

 

Chỉ người đau khổ

biết được khổ đau của mình

1 Yob cất tiếng và nói:

2 Ôi, nếu người ta cân được phiền muộn của tôi,

và đặt lên bàn cân cả nỗi bất hạnh!

3 Nhưng chúng còn nặng hơn cát biển,

chính vì thế mà lời của tôi tắc nghẹn.

4 Bởi vì những mũi tên của Shađđay ghim vào tôi,

và lòng trí tôi uống lấy nọc độc;

những cơn kinh hoàng

của Thiên Chúa dàn trận chống lại tôi.

5 Lừa hoang nào cất tiếng hí bên đám cỏ non?

Bò mộng nào rống lên bên đống cỏ?

6 Ðồ nhạt nhẽo nào ăn không muối?

Mùi vị gì trong nước cốt thục quỳ?

7 Hồn tôi chối từ đụng đến,

lòng tôi chán ngấy bánh ăn.

8 Ôi, xin hãy đến điều tôi khấn nài,

và xin Thiên Chúa ban cho tôi điều tôi trông đợi!

9 Ước gì Thiên Chúa đoái đánh tôi tán vụn,

Người vung tay Người mà khử trừ tôi!

10 Thì ít ra tôi sẽ được niềm an ủi này,

và chút niềm vui

trong cực hình không tình thương xót,

là đã chẳng quên lãng lời của Ðấng Thánh.

11 Sức lực tôi là gì để mà hy vọng?

Vận số tôi ra sao để mà kiên nhẫn?

12 Sức tôi há là sức đá,

thịt tôi đâu phải bằng đồng?

13 Phải chăng là hư không, trợ lực tôi đợi chờ?

và mọi nương tựa đã bỏ tôi mà đi?

14 Từ chối lòng trung tín với đồng loại,

e cũng bỏ qua sự kính sợ Shađđay.

15 Anh em tôi đã phản bội tôi như một giòng nước lũ,

như lòng những giòng suối đào tẩu.

16 Giá băng làm chúng tối sầm lại

và trên chúng tuyết đọng lại từng đống;

17 Nhưng khi mặt trời thiêu đốt, chúng cạn khô,

chúng biến mất tại chỗ, khi trời chưa nóng.

18 Ðoàn thương đội rẽ khỏi đường họ,

tiến sâu vào sa mạc và tiêu hao.

19 Ðoàn thương đội Têma giương mắt ngó chằm chặp,

đoàn lữ hành Saba trông chờ nơi chúng.

20 Nhưng họ bị bẽ bàng vì đã tin tưởng,

khi đến bên bờ, họ phải sượng sùng.

21 Giờ đây, đối với tôi, các anh là như thế đó,

các anh thấy tai biến và khiếp sợ xâm chiếm các anh.

22 Phải chăng tôi đã nói với các anh:

"Hãy ban cho tôi chút gì,

hãy lấy trong tài sản các anh bố thí cho tôi.

23 Hãy giải cứu tôi khỏi tay một địch thù,

hãy giải thoát tôi khỏi tay bạo chúa?"

24 Hãy cho tôi hay và tôi sẽ nín lặng,

hãy chỉ tôi rõ, tôi đã lỗi lầm điều chi?

25 Lời công chính có sức mạnh dường bao!

Những lời trách móc của anh trách móc gì?

26 Phải chăng các anh muốn bác bẻ lời nói:

Nhưng, gửi cho gió, những lời của kẻ tuyệt vọng!

27 Các anh rút thăm cả kẻ côi cút

và bán luôn cả bạn bè.

28 Thôi, tôi van các anh, hãy ngó nhìn tôi!

Tôi lại sẽ nói láo các anh thẳng mặt?

29 Hãy quay lại, xin đừng dối trá.

Hãy quay lại, sự công chính của tôi còn đó.

30 Trên lưỡi tôi có điều dối trá?

Khẩu cái tôi không phân biệt được họa tai?

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page