Kinh Thánh Cựu Ước

Thánh Vịnh

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Thánh Vịnh :  | | 001 | | 002 | | 003 | | 004 | | 005 | | 006 | | 007 | | 008 | | 009 | | 010 | | 011 | | 012 | | 013 | | 014 | | 015 | | 016 | | 017 | | 018 | | 019 | | 020 | | 021 | | 022 | | 023 | | 024 | | 025 | | 026 | | 027 | | 028 | | 029 | | 030 | | 031 | | 032 | | 033 | | 034 | | 035 | | 036 | | 037 | | 038 | | 039 | | 040 | | 041 | | 042 | | 043 | | 044 | | 045 | | 046 | | 047 | | 048 | | 049 | | 050 | | 051 | | 052 | | 053 | | 054 | | 055 | | 056 | | 057 | | 058 | | 059 | | 060 | | 061 | | 062 | | 063 | | 064 | | 065 | | 066 | | 067 | | 068 | | 069 | | 070 | | 071 | | 072 | | 073 | | 074 | | 075 | | 076 | | 077 | | 078 | | 079 | | 080 | | 081 | | 082 | | 083 | | 084 | | 085 | | 086 | | 087 | | 088 | | 089 | | 090 | | 091 | | 092 | | 093 | | 094 | | 095 | | 096 | | 097 | | 098 | | 099 | | 100 | | 101 | | 102 | | 103 | | 104 | | 105 | | 106 | | 107 | | 108 | | 109 | | 110 | | 111 | | 112 | | 113 | | 114 | | 115 | | 116 | | 117 | | 118 | | 119 | | 120 | | 121 | | 122 | | 123 | | 124 | | 125 | | 126 | | 127 | | 128 | | 129 | | 130 | | 131 | | 132 | | 133 | | 134 | | 135 | | 136 | | 137 | | 138 | | 139 | | 140 | | 141 | | 142 | | 143 | | 144 | | 145 | | 146 | | 147 | | 148 | | 149 | | 150 | |


- Thánh Vịnh 074 (073) -

Ai ca về Thánh điện bị phá

 

1 Thi khúc. Của Asaph.

Nhân sao, lạy Thiên Chúa, Người đã từ rẫy đến cùng,

Người đã bừng nổi giận với chiên ràn Người?

2 Xin nhớ đến cộng đoàn Người đã tậu từ ngàn xưa,

bộ lạc Người đã chuộc làm cơ nghiệp của Người,

núi Sion nơi Người trấn ngự.

3 Xin hãy quá bộ duyệt xem cảnh thê lương vạn đại;

Quân thù đã tàn phá cả trong thánh điện;

4 Chúng rống lên, quân địch của Người, trong công hội,

cờ hiệu là cờ hiệu chúng cắm vào,

5 chúng bổ phăng như thể (tiều phu)

múa rìu giữa cây rậm,

6 hoành phi và đồ cẩn chạm một thể,

chúng giương búa giương chùy chúng nện.

7 Chúng phóng hỏa thánh điện của Người,

chúng phá bình địa nơi Danh Người trấn ngự.

8 Chúng định trong lòng:

"Ta hãy triệt hạ chúng đi một trật!"

Chúng đã đốt phá khắp xứ các hội đường thờ Thiên Chúa.

9 Dấu lạ đâu, chúng tôi không thấy,

tiên tri cũng không còn,

nơi chúng tôi, không ai biết còn thế cho đến bao giờ!

10 Ðến bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa,

kẻ thù còn thóa mạ,

quân thù cứ phỉ báng Danh Người mãi mãi?

11 nhân sao Người lại vòng tay,

và tay phải Người, Người lại thu dấu vào lòng?

12 lạy Thiên Chúa, Vua của tôi, từ ngàn xưa,

giữa đất đai này, Người là Ðấng dày công cứu độ.

13 Chính Người đã ra oai xả thây đại hải,

đập bể đầu thuồng luồng trong nước.

14 Chính Người đã làm bay đầu hải long,

phanh thây nó làm mồi cho giải biển.

15 Chính Người đã xẻ ra khe suối,

chính Người đã tát cạn những sông luôn chảy.

16 Ngày là của Người, mà đêm cũng là của Người,

chính Người đã dựng nên ánh nguyệt và mặt trời.

17 Chính Người đã vạch cương giới địa cầu,

hạ đông các tiết, chính Người định phân.

18 Ðiều này xin Người ghi nhớ:

kẻ thù đã thóa mạ Yavê,

và một dân ngu ngốc đã phỉ báng Danh Người.

19 Mạng chim câu của Người, xin chớ thí cho mãnh thú,

sinh mạng hạng nghèo khó của Người,

xin chớ lãng quên mãi mãi.

20 Xin hãy đoái nhìn Giao ước, vì đã ứa đầy,

tận hang cùng ngõ hẻm, những ổ bạo tàn.

21 Chớ để kẻ bị áp bức, lui về tủi hổ,

cho kẻ khó người nghèo được ngợi khen Danh Người!

22 Xin hãy chỗi dậy, lạy Thiên Chúa,

mà bênh lấy vụ kiện của Người,

xin ghi nhớ: đứa ngu ngốc thóa mạ Người suốt ngày,

23 đừng quên tiếng gầm của phường đối địch,

tiếng la lối rân lên mãi của lũ phiến loạn với Người.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page