Kinh Thánh Cựu Ước

Ysaya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | | 51 | | 52 | | 53 | | 54 | | 55 | | 56 | | 57 | | 58 | | 59 | | 60 | | 61 | | 62 | | 63 | | 64 | | 65 | | 66 | |


- Chương 08 -

 

Ysaya sinh một con trai

1 Yavê phán bảo tôi: "Ngươi lấy một tấm biển lớn và viết lên trên bằng dùi thường: Maher-Shalal-Khash-Baz".

2 Bấy giờ tôi đã xin những người đáng tin cậy làm chứng: Tư tế Uriyah, và Zakaryahu con của Ybêrêkyahu.

3 Sau đó, tôi lại gần nữ tiên tri, và bà đã thụ thai và sinh con trai. Yavê phán bảo tôi: "Hãy gọi tên nó là Maher-Shalal-Khash-Baz, 4 vì trước khi trẻ biết kêu "Cha" "Mẹ", thì người ta đã tải của cải Ðama và chiến quả Samari đến trước mặt vua Assur.

 

Siloam và sông Phơrat

5 Yavê còn phán với tôi lần nữa rằng:

"6 Bởi chưng dân này rẻ rúng Siloam nước chảy lờ đờ, đến đỗi tan rữa trước sự hống hách của Raxôn và con của Rơmalyahu, 7 cho nên: Này Ðức Chúa cho dâng trên chúng, nước Sông Cả đà thác lũ - vua Assur và tất cả oai phong của nó - nó sẽ tràn bờ và phá cả đê điều mà đi; 8 nó sẽ ào vào Yuđa, tràn ngập lênh láng, lút đến cổ, nhưng sẽ xảy ra là cánh trương ra phủ khắp ngang dọc xứ sở ngươi, hỡi Immanuel. 9 Hội lại đi! Hỡi các dân, mà vỡ mật; thiên hạ phương xa hãy lắng tai!

Hãy nai lưng mà vỡ mật! Hãy nai lưng mà vỡ mật!

10 Hãy bầy mưu lập kế, để thất bại,

hãy ra điều ước, để không thành, vì "Thiên Chúa ở với chúng ta".

 

Sứ vụ của Ysaya

11 Quả vậy, này là điều Yavê phán bảo khi nắm lấy tay tôi.

Người răn dạy tôi không được đi theo đường của dân ấy, mà rằng:

"12 Các ngươi không được nói: "Mưu phản",

mỗi khi dân ấy la làng: "Mưu phản!"

điều làm chúng sợ, các ngươi không được sợ,

cũng không được khiếp vía.

13 Chính Yavê các cơ binh, các ngươi sẽ tôn thánh,

chính Người là mối sợ hãi của các ngươi.

14 Người là thánh điện và là đá vấp phạm,

là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel,

là tròng lưới và là cạm bẫy cho dân cư Yêrusalem.

15 Trên đó lắm người sẽ trượt nhào, chúng lăn ngã mà tan xương,

chúng sẽ sa bẫy và bị chụp".

16 Tôi phong lại đoan nguyền,

(tôi niêm) lời chỉ giáo nơi hàng đồ đệ của tôi.

17 Tôi sẽ ngóng trông Yavê, Ðấng ẩn nhan Người với nhà Yacob,

tôi chờ đợi Người.

18 Này tôi và những đứa con Yavê đã ban cho tôi,

chúng tôi là dấu, là điềm giữa Israel,

do bởi Yavê các cơ binh, Ðấng ngự ở núi Sion.

19 Khi chúng bảo các ngươi: "Hãy hỏi đồng bóng và thầy bói,

những kẻ xầm xì, những kẻ lâm râm",

dân nào lại không hỏi thần linh bản mệnh?

và vì người sống hỏi thăm vong hồn,

"20 Về với chỉ giáo, về với đoan nguyền!"

Hẳn thật chúng phải nói thế,

cho người không tài bắt quyết giải bùa.

 

Ánh sáng rạng trên tối tăm

21 Nó sẽ băng qua (xứ) cùng cực và đói khổ:

và sẽ xảy ra là khi nó đói, nó sẽ bực tức,

mà nguyền rủa cả vua lẫn Thiên Chúa của nó;

nó sẽ ngước mắt lên cao,

22 rồi lại nhìn xuống đất, nhưng này: Chỉ có quẫn bách và tối tăm

mịt mù, khốn đốn với u minh.

23 Vì thật vô phương tẩu thoát cho kẻ đọa đày, nguy khốn!

Cũng như thời đầu đã làm suy đốn đất Zabulon và Neptali,

thì thời sau, sẽ làm rạng vinh:

Con đường biển, đất Bên kia Yorđan, và vùng các dân tứ chiếng.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page