Kinh Thánh Cựu Ước
Yêrêmya
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương : | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | | 25 | | 26 | | 27 | | 28 | | 29 | | 30 | | 31 | | 32 | | 33 | | 34 | | 35 | | 36 | | 37 | | 38 | | 39 | | 40 | | 41 | | 42 | | 43 | | 44 | | 45 | | 46 | | 47 | | 48 | | 49 | | 50 | | 51 | | 52 | |
- Chương 52 -
VI. Phụ Chương
1 Sêđêqya được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi và đã trị vì mười một năm ở Yêrusalem. Tên mẹ là Khamutal, con của Yêrêmya, quê ở Libnah. 2 Ông đã làm sự dữ trước mắt Yavê, hoàn toàn như Yôyaqim đã làm. 3 Chính do bởi cơn giận của Yavê mà sự đã xảy ra (như thế) ở Yêrusalem và ở Yuđa, mãi cho đến khi Người xua chúng xa khỏi nhan Người.
Và Sêđêqya đã dấy loạn chống lại vua Babel. 4 Năm thứ chín triều Sêđêqya, ngày mồng mười, tháng mười, Nabukôđônôsor, vua Babel, và tất cả quân binh của ông đến đánh Yêrusalem; họ hạ trại hãm thành và thiết đặt vòng vây quanh thành. 5 Thành đã bị vây hãm cho đến năm mười một đời vua Sêđêqya. 6 Tháng tư, mồng chín tháng ấy, nạn đói đã nên trầm trọng trong thành, và bánh không có nữa cho dân trong xứ. 7 Thành đã bị công phá. Thấy vậy vua và tất cả binh lình chạy trốn, và nhân lúc ban đêm đã ra khỏi thành theo hướng con đường qua Cổng giữa hai lũy bên trên ngự uyển - bấy giờ có quân Kanđu bao quanh thành - và họ đi theo đường đến Hoang giao. 8 Quân binh Kanđu đuổi theo vua và đuổi kịp Sêđêqya trong vùng Hoang giao Yêrikhô; và tất cả binh lính của ông đã tán loạn bỏ ông. 9 Người ta đã bắt vua và điệu ông đến với vua Babel ở Ribla, trong đất Khamat, và (vua Babel) đã tuyên án trên ông. 10 Vua Babel đã cho hạ sát các con của Sêđêqya trước mắt ông; (vua Babel) cũng cho hạ sát tất cả các vương công Yuđa ở Ribla. 11 (Vua Babel) đã đâm mù mắt Sêđêqya và cho xiềng ông lại bằng hai xích đồng; đoạn vua Babel đã cho điệu ông về Babel và tống ông vào nhà giam cho đến ngày ông chết.
12 Tháng năm, mồng mười tháng ấy - tức là năm mười chín đời vua Nabukôđônôsor, vua Babel, Nơbuzarađan hồng-lô-tự-khanh, quan hầu cận trước mặt vua Babel, đến Yêrusalem. 13 Ông đã đốt nhà của các ông lớn. 14 Tất cả binh Kanđu dưới quyền quan hồng-lô-tự-khanh đã triệt hạ tất cả các tường lũy quanh Yêrusalem.
15 Dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua Babel và những thợ thuyền còn lại, thì Nơbuzarađan hồng-lô-tự-khanh đã bắt đi đày. 16 Còn lê dân trong xứ, Nơbuzarađan hồng-lô-tự-khanh đã để lại để trồng nho và canh tác.
17 Quân Kanđu đã đập bể các trụ đồng nơi Nhà Yavê, các giá chở vạc, và Biển đồng trong Nhà Yavê, mà lấy đồng đem về Babel. 18 Họ cũng lấy cả nồi niêu, xẻng, bình tưới, quán tôn, đĩa bát, và tất cả những đồ bằng đồng dùng khi tế tự. 19 Quan hồng-lô-tự-khanh đã lấy các chậu, các liệu lư, quán tôn, các nồi niêu, chân đèn, muỗng tách, và tất cả những gì bằng vàng, bằng bạc. 20 Hai cột trụ, một Biển (đồng), và mười hai con bò bằng đồng ở bên dưới, các giá chở vạc, vua Salômon đã làm cho Nhà Yavê, đồng của tất cả các đồ vật ấy thật vô lường. 21 Các cột trụ mỗi cột cao mười tám xích, và một sợi dây mười hai xích mới đo vòng nó được; dày bốn ngón, trong rỗng. 22 Bên trên cột, có đẩu bằng đồng, mỗi đẩu cao năm xích. Màng lưới và lựu kết xung quanh đẩu, hết thảy đều bằng đồng. Cũng vậy về cột trụ thứ hai và các quả lựu... 23 Các quả lựu là 96 quả, chạm nổi; tổng số lựu là một trăm quả, kết quanh màng lưới.
24 Quan hồng-lô-tự-khanh bắt giữ Sơrayah tư tế thủ lãnh, Xơphanyah, tư tế thứ hai, và ba thủ hộ, 25 còn trong thành, ông bắt giữ một hoạn quan, cai quản quân lính, bảy vị cận thần của vua gặp thấy trong thành, viên ký lục của tướng quân, lo việc trưng binh trong xứ, và sáu mươi người thuộc dân trong xứ gặp thấy trong thành. 26 Nơbuzarađan hồng-lô-tự-khanh đã bắt các người ấy, mà điệu họ đến với vua Babel ở Ribla. 27 Vua Babel đã ra lịnh xử tử và cho giết họ ở Ribla trong xứ Khamat.
Vậy Yuđa đã bị đày xa đất đai của họ. 28 Ðây là (số) dân chúng, Nabukôđônôsor đã bắt đi đày: Năm thứ bảy, 3,023 người Yuđa; 29 năm mười tám đời Nabukôđônôsor: 832 nhân mạng thuộc Yêrusalem. 30 Năm -23 đời Nabukôđônôsor, Nơbuzanrađan hồng-lô-tự-khanh, đã bắt đi đày 745 người Yuđa. Tổng số là 4,600 nhân mạng.
31 Xảy ra là năm ba mươi bảy thời lưu đày của Yôyakin, vua Yuđa, tháng mười hai, ngày hai mươi bảy trong thánh, Êvil-Mêrôđak, vua Babel trong năm đăng quang của ông, đã ân xá cho Yôyakin, vua Yuđa, và đã cho ông ra khỏi tù. 32 Vua đã thân thiện tiếp chuyện ông và đã đặt ngai ông lên đầu hàng ngai các vua có mặt bên vua ở Babel. 33 Vua đã thay áo tù cho ông và ông đã được cùng bàn luôn luôn trước mặt vua, suốt mọi ngày đời ông. 34 Ông được cấp khẩu phần, khẩu phần cố định, do vua Babel ban, ngày nào phần ấy, suốt mọi ngày đời ông, cho đến khi ông chết.
Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước