Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Tôbya

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | |


- Chương 02 -

 

II. Kẻ Mù Lòa

 

1 Vậy dưới triều Sakhađđon, tôi đã xuống lại nhà tôi. Người ta đã trả lại cho tôi Anna, vợ tôi, với Tôbya, con tôi. Ngày lễ Năm mươi (Lễ các Tuần), tôi được một bữa trưa thịnh soạn, và tôi đã ngả mình xuống dùng bữa. 2 Người ta đã dọn bàn cho tôi, và đã dọn cho tôi rất nhiều món ăn. Tôi mới bảo Tôbya con tôi: "Này con, con hãy đi ra và gặp được ai nghèo trong anh em ta, những người bị đày ở Ninivê, nhưng hết lòng nhớ đến (Thiên Chúa) thì con hãy dẫn về để cùng chia sẻ bữa ăn với cha. Này! Cha đợi con về đó, hỡi con!" 3 Tôbya đã tìm một người nghèo khó trong hàng anh em chúng tôi. Trở về, nó nói: "Thưa cha!" và tôi đáp lại nó: "Này, cha đây, con!" Nó trả lời: "Thưa cha, này có một người thuộc dân tộc ta đã bị sát hại và quăng ngoài bùng binh chính nơi người ấy vừa bị thắt cổ". 4 Tôi liền chồm dậy, bỏ bữa ăn ngay trước khi nếm một tí gì, tôi cất xác người ấy khỏi bùng binh và đem đặt trong một căn nhà, chờ mặt trời lặn để đem chôn. 5 Ðoạn trở về tôi tắm rửa, và ăn bánh trong tang sầu. 6 Tôi đã nhớ lại lời tiên tri, những điều Amos đã nói về Bêthel rằng:

Ðại lễ của các ngươi sẽ đổi thành tang sầu

và ca vãn hết thảy nên lời ai ca.

Và tôi đã khóc.

7 Rồi khi mặt trời lặn tôi đi đào huyệt chôn cất người ấy.

8 Những người lân cận cười chê tôi mà nói: "Hắn vẫn chưa sợ! Ðã bị tầm nã để giết đi về việc ấy và đã bỏ trốn, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết".

9 Tối ấy, tôi tắm rửa, đoạn vào trong sân. Tôi nằm ngủ kề vách tường ven sân, mặt để hở không che vì trời nóng bức. 10 Tôi không biết là bên trên tôi có chim sẻ nơi vách tường. Cứt chim nóng hổi rơi vào mắt tôi, gây ra những vệt trắng (vảy cá mắt). Tôi đã đi cầu thầy chạy thuốc. Nhưng người ta càng xức thuốc bao nhiêu, thì mắt càng lòa bấy nhiêu vì những vệt trắng ấy, và cuối cùng tôi đã mù thật. Tôi đã mang tật nơi mắt bốn năm. Anh em tôi hết thảy đều sầu tủi cho tôi. Akhikar đã cấp dưỡng tôi hai năm trước khi nó trẩy đi Êlynai.

11 Thời ấy Anna, vợ tôi, phải canh cửi, việc vàn phận gái. 12 Nhà tôi giao hàng cho chủ mướn, và họ trả công cho nàng. Số là mồng bảy tháng Ðystros, nàng xén tấm vải và đem giao cho chủ thuê. Họ đã trả trọn công cho nàng và lại còn làm quà cho nàng một dên con để khao một bữa. 13 Khi nàng vào nhà bên tôi, thì con dê cất tiếng kêu be be. Tôi mới gọi nàng lại và bảo: "Con dê ấy ở đâu đến? Họa chăng là của trộm cắp? Hãy đem trả cho chủ nó! Vì ta không được phép ăn của gì ăn trộm". 14 Nàng nói với tôi: "Quà người ta tặng tôi thêm với tiền công đó mà". Tôi không tin và cứ bảo phải trả lại cho chủ. Tôi lấy làm xấu hổ đỏ mặt thay cho nàng vì điều đó. Nhân đó nàng đáp lại và nói với tôi: "Thế thì đâu nào có việc bố thí của ông? Ðâu nào các việc nghĩa của ông? Ðó kìa, các sự ấy đã quá rõ đối với ông".

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page