Kinh Thánh Cựu Ước

Mica

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | |


- Chương 07 -

 

Một xã hội đảo điên

1 Khốn thân tôi! Vì tôi lâm cảnh hái trái mùa hè,

vào lúc mót quả mùa nho.

Không một chùm nho nào ăn!

Không một thường tân, họng những ước ao!

2 Người nhân đức đã biến khỏi xứ.

Kẻ lành không còn nữa giữa người phàm.

Chúng hết thảy rình mò đổ máu.

Căng lưới, chúng săn diệt lẫn nhau.

3 Ðể làm dữ thì bàn tay chúng thiện nghệ.

Quan quyền, lẫn thẩm phán, chỉ đòi công.

Kẻ lớn phán quyết theo cái ước mơ họng mình.

Khốn nạn, chúng làm méo mó lẽ công!

4 Kẻ tốt lành nhất trong bọn cũng như cà cuốc

và người lương thiện hơn cả cũng là giậu gai.

Ngày hỏi tội chúng, ngày những người canh đã báo đến nơi.

Bấy giờ sẽ là tán loạn cho chúng.

5 Chớ tin bạn hữu, chớ cậy vào kẻ thâm giao.

Ngay với kẻ cùng ngươi chăn gối bên lòng,

ngươi cũng hãy canh chừng cửa miệng.

6 Vì con dám miệt thị cha,

con gái dấy lên chống lại mẹ,

nàng dâu chống lại mẹ chồng,

kẻ thù của người ta, chính người nhà của mình.

7 Phần tôi, tôi ngóng rình Yavê.

Tôi trông cậy vào Thiên Chúa tế độ của tôi.

Người sẽ nhậm lời tôi, Thiên Chúa của tôi!

 

IV. Hy Vọng

 

Sion bị kẻ thù chửi rủa

8 Ngươi đừng vui vì ta (nông nổi), hỡi đứa thù của ta.

Vì nếu ta ngã, thì ta chỗi dậy.

Vì nếu ta phải ngồi trong tối tăm, thì Yavê là ánh sáng cho ta!

9 Phẫn nộ của Yavê, tôi xin mang lấy, bởi tôi đã có lỗi với Người,

cho đến khi Người xét xử vụ kiện của tôi,

và cho công lý của tôi sáng tỏ.

Người sẽ đem tôi ra ánh sáng, và tôi sẽ được thấy đức độ của Người.

10 Bấy giờ, đứa thù của tôi sẽ thấy, và xấu hổ sẽ trùm lấy nó.

Nó nói: "Nào đâu, Yavê Thiên Chúa ngươi thờ?"

Trên nó, mắt tôi sẽ khinh (mà) nhìn xuống.

Bấy giờ nó sẽ là đồ thiên hạ chà lên, như bùn toe phố phường.

 

Thời thái lai hứa cho Sion

11 Vào ngày xây lại tường rào của ngươi, ngày ấy cương giới dời xa!

12 Ngày ấy thiên hạ sẽ đến với ngươi từ Assur cho đến Aicập,

từ Aicập cho đến Sông Cả,

từ biển này qua biển nọ, từ núi nọ đến núi kia.

13 Ðất sẽ trở thành hoang địa vì cớ dân cư trên đó.

Ðó là quả báo do những việc làm của chúng.

 

Lời nguyện cho các dân phải xấu hổ

14 Xin hãy cầm gậy mà chăn dắt dân Người,

cao dương thuộc cơ nghiệp của Người,

cô quạnh ở chốn rừng hoang, ở giữa những vườn quả.

Ước gì chúng được chăn ở Bashan và Galaad như những ngày thuở xưa.

15 Như ngày Người ra khỏi Aicập,

xin tỏ cho chúng tôi thấy những sự lạ lùng.

16 Chư quốc thấy thì xấu hổ cho mọi việc anh hùng của chúng.

Chúng sẽ lấy tay bịt miệng, chúng sẽ ù tai điếc!

17 Chúng sẽ liếm bụi như rắn, như loài bò lê trên đất.

Run cầm cập, chúng kéo nhau ra khỏi sào huyệt

đến cùng Yavê Thiên Chúa của chúng ta.

Chúng sẽ hãi hùng kinh sợ trước mặt Người.

Khẩn xin Thiên Chúa tha thứ

18 Thần nào giống được như Người, Ðấng nhịn tội ác,

Ðấng bỏ qua lỗi lầm cho số sót cơ nghiệp của Người?

Người không cưu giận mãi mãi, vì Người yêu chuộng nhân nghĩa.

19 Với ta, Người lại chạnh thương lần nữa,

mà dẫm lên các tội ác của ta.

Mọi lỗi lầm của ta, Người sẽ quăng chìm đáy biển!

20 Với Yacob, xin Người chứng tỏ lòng trung, và với Abraham,

tình nhân nghĩa, điều Người đã thề thốt với tổ tiên chúng tôi

từ những ngày (xa xăm) thuở trước.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page