Kinh Thánh Cựu Ước

Sách Samuel II

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương :  | | 01 | | 02 | | 03 | | 04 | | 05 | | 06 | | 07 | | 08 | | 09 | | 10 | | 11 | | 12 | | 13 | | 14 | | 15 | | 16 | | 17 | | 18 | | 19 | | 20 | | 21 | | 22 | | 23 | | 24 | |


- Chương 23 -

 

Những lời sau hết của Ðavit

1 Ðây là những lời sấm của Ðavit:

Sấm của Ðavit, con của Ysai,

Sấm của người đã được đặt cao,

vì được xức dầu của Thiên Chúa Yacob,

kẻ ngâm ca lời vịnh của Israel.

2 Thần khí Yavê nói trong tôi,

và lời của Người trên lưỡi tôi,

3 Thiên Chúa của Israel đã nói,

với tôi, Tảng đá cuả Israel đã phán:

Người hiền cai quản nhân loài,

quản cai trong đức kính sợ Thiên Chúa,

4 thì ví được như ánh sáng bình minh khi mặt trời mọc,

vào một buổi sáng không mây,

làm cho rực sáng, sau một cơn mưa, cỏ non đồng nội.

5 Nhà tôi bên cạnh Thiên Chúa lại không thế sao?

Bởi chưng Người đã lập Giao ước vĩnh tồn với tôi,

chỉnh tề mọi lẽ và được đề phòng,

phải chăng Người sẽ không cho mọi ơn tế độ cùng mọi sở vọng nảy chồi?

6 Lũ vô loài thay thảy như gai liệng bỏ,

người ta không cầm lấy vào tay;

7 Ai muốn rờ đến,

phải tra (tay) thanh sắt hay cán giáo;

chúng sẽ bị huỷ thiêu.

 

Các võ biền của Ðavit

8 Ðây là danh sách các võ biền Ðavit: Ishbaal người Khakmôn, cầm đầu bộ ba; lần kia (có lúc) ông đã vung giáo trên tám trăm người. 9 Sau ông là Êlêazar, con của Ðôđô, con của một người Akhoakh, cũng thuộc số ba võ biền. Ông ở dưới Ðavit tại Ephes-Ðammin, khi quân Philitin tụ tập lại đó giao chiến, và khi người Israel đã rút lui, 10 ông đã đứng lên đánh quân Philitin mãi cho tới khi tay ông mỏi rời, bị vọp bẻ cứng vào gươm. Ngày ấy, Yavê đã cho đại thắng và binh lính đã trở lại sau (Êlêazar), nhưng chỉ để hôi của. 11 Sau ông là Shammah, con của Aghê người Harar. Quân Philitin tụ tập lại ở Lơkhi. Ở đó có một thửa đồng trồng đầy đậu nâu, và binh lính đều đã tẩu thoát trước mặt quân Philitin. 12 Nhưng ông đã cầm cự giữa thửa ruộng, đuổi địch khỏi thửa ruộng và đã đánh bại quân Philitin. Và Yavê đã cho đại thắng.

13 Ba người trong nhóm ba mươi đã xuống và đến với Ðavit vào đầu mùa gặt, ở hang Ađullam, trong khi một cơ đội Philitin thiết trại ở cánh đồng Rơphaim. 14 Bấy giờ Ðavit đang ở nơi đồn trú còn một trạm binh Philitin khi ấy đóng ở Bêlem. 15 Ðavit mới ao ước rằng: "Phải chi ta được uống nước giếng nơi cổng (thành) Bêlem!" 16 Ba võ biền đã xuyên qua trại Philitin, mà múc giếng Bêlem, nơi cổng thành mà đem về dâng cho Ðavit. Nhưng ông không chịu uống, ông đã đổ làm quán dâng Yavê, 17 ông nói: "Gở thay trước (mặt) Yavê nếu ta làm thế! phải chăng đây là máu những người đã liều mạng ra đi...?" Và ông đã không muốn uống nước ấy. Ðó là các điều ba võ biền đã làm.

18 Abyshay, em của Yôab, con của Xơruyah, làm đầu "Toán ba mươi". (Có lần) ông đã vung giáo trên ba trằm người và đã nổi danh trong "Toán ba mươi". 19 Há ông không được tôn trọng hơn cả "Toán ba mươi" và làm tướng của họ đó sao? Nhưng ông không ngang hàng được với "bộ ba".

20 Bơnayahu, con của Yôhôyađa, một người dũng cảm võ công hiển hách, quê ở Qabxơel. Chính ông đã hạ đựơc hai võ tướng của Môab; chính ông đã xuống đánh sư tử dưới đáy hố sâu, một ngày có tuyết. 21 Và cũng chính ông đã đấu với một người Aicập dị tướng. Người Aicập cầm nơi tay một cái giáo, còn ông xuống đấu cùng hắn với một cây gậy. Ông đã giựt được cây giáo trong tay người Aicập và đã giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 22 Ðó là những điều Bơnayahu con của Yơhôyađa đã làm, ông đã nổi danh trong "Toán ba mươi" võ biền. 23 Ông được tôn trọng hơn "Toán ba mươi", nhưng ông không ngang hàng được với "bộ ba". Ðavit đã đặt ông vào toán cận vệ.

24 Asahel, em của Yôab, (cũng) thuộc "Toán ba mươi"...

Elkhanan, con của Ðôđô, người Bêlem;

25 Shamah, người Kharôđ;

Eliqa, người Kharôđ;

26 Khêles, người Bet-Pêlet;

Ira, con của Iqqesh, người Tơqoa;

27 Abiêzer, người Anatôt;

Sibêkai, người Khushah;

28 Xalmôn, người Akhoakh;

Maharai, người Nơtôphah;

29 Khêled, con của Baanah, người Nơtôphah;

Ittai con của Ribbai, quê ở Gibơah, thuộc coc cái Benyamin;

30 Bơayahu, người Pirơatôn;

Hiđđai, quê ở Khe Gaash;

31 Abi-baal, người Bet-ha-Arabah;

Azmavet, người akhurim;

32 Elyakhba, người Shaalbôn;

Yashen, người Gimzo;

33 Yônatan, con của Shammah, người Harar;

Akhiam, con của Sharar, người Harar;

34 Eliphêlet, con của Akhasbai, người thuộc (họ) Maaka;

Elaim, con của Akhitophel, người Gilô;

35 Khesrai, người Karmel;

Paarai, người Arab;

36 Yigơal, con của Natan, người Xôbah;

Bami, người Gat;

37 Xêleq, người Amnon;

Nakharai, người Bêơrôt, hiệp sĩ theo Yôab, con của Xơruah;

38 Ira, người Yattir;

Gareb, người Yattir;

39 Uriya, người Hit-tit.

Tất cả là ba mươi bảy.

 

Trở về Mục Lục Kinh Thánh Cựu Ước

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page