Tuần 85 (Tuần 10 – TÂN ƯỚC)
I. TỔNG QUÁT
Vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ ba, thánh Phaolô đã viết Thư gửi tín hữu Galata. Bây giờ, vào cuối giai đoạn này, trong thời gian ba tháng lưu lại tỉnh Achaia, ngài viết Thư gửi tín hữu Roma, khoảng từ cuối năm 56 đến đầu năm 58.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người thiết lập Giáo hội tại Roma. Có lẽ Giáo hội này đã được cộng đoàn Kitô hữu gốc Do thái thiết lập từ trước, khi họ đến Roma. Nhưng vào năm 49, hoàng đế Claudius đã ra lệnh trục xuất người Do thái ra khỏi Roma. Sau khi Claudius băng hà vào năm 54, các Kitô hữu Do thái trở lại Roma, và họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều Kitô hữu gốc ngoại giáo. Những cuộc trở lại gia tăng rất nhanh. Vì thế, cộng đoàn mà thánh Phaolô viết thư này là cộng đoàn có số đông các Kitô hữu gốc ngoại giáo.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phaolô đã khuyến khích các Kitô hữu gốc ngoại giáo lạc quyên giúp đỡ người nghèo ở Giêrusalem, và ngài đích thân đem đến cho họ (Rm 15,25-27) nhân dịp đến Giêrusalem, đồng thời có dự định thăm Roma trên đường đi Tây ban nha (15,28). Ngài cũng dự trù những chống đối có thể xẩy ra nên ngài gửi thư trước khi đi. Như thế, lá thư này có thể là cơ hội thánh Phaolô giới thiệu bản thân ngài với một cộng đoàn hầu hết chưa biết ngài. Đồng thời, ngài tóm tắt trong thư những gì dự định sẽ trình bày ở Giêrusalem. Ngoài ra, ngài rất quan tâm đến thiểu số Kitô hữu Do thái ở Roma, được thể hiện qua các chương 9-11 và 14-15.
Có thể trình bày lược đồ tổng quát của Thư Roma như sau :
1,1-17 Lời chào và phần mở đầu
I. Tóm tắt Tin Mừng mà Phaolô rao giảng (1,18 – 11,36)
- 1,18 – 3,20 Thân phận con người không có Chúa Kitô
- 3,21 – 4,25 Cứu độ nhờ đức tin vào Chúa Kitô
- 5,1 – 8,39 Đời sống Kitô hữu
- 9,1 – 11,36 Hi vọng của Israel
II. Khuyên nhủ và khích lệ (12,1 – 15,13)
Kết (15,14 – 16,27)
II. CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA
“Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (R, 1,20). Dựa vào những lời này của thánh Phaolô và nhiều văn bản Thánh Kinh khác (Cv 14,15.17; 17,27-28; St 13,1-9), Hội Thánh Công giáo khẳng định rằng căn cứ vào vận hành và biến hoá của thế giới, tính vô thường, trật tự và vẻ đẹp của thế giới, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa như là nguyên thuỷ và cùng đích của vũ trụ (x. GLHTCG số 32).
Trong thực tế, con người vẫn khó nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí tự nhiên, vì có nhiều trở ngại ngăn cản lý trí vận dụng hữu hiệu năng lực tự nhiên của nó : (1) những chân lý liên quan đến Thiên Chúa vượt hẳn lãnh vực khả giác, (2) muốn hành động và sống theo chân lý, con người phải xả thân và quên mình, (3) tác động của những ham muốn xấu do nguyên tội gây ra. Vì thế chúng ta cần đến mạc khải soi sáng và hướng dẫn.
III. CÔNG CHÍNH HOÁ BỞI ĐỨC TIN
“Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất kể là người Do thái hay dân ngoại. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban cách nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 3,22-24). Dựa vào những lời này của thánh Phaolô, Hội Thánh cho thấy những điểm căn bản về ơn công chính hoá:
– Ơn công chính hoá mở đầu cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, ơn công chính hoá được biểu lộ qua sự ưng thuận tin vào Lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần.
– Ơn công chính hoá là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa. Ơn này phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa giầu lòng thương xót và hằng tha thứ; được biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô, Đấng “đã đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha thứ cho những ai tin” (Rm 3,25); và được Chúa Thánh Thần ban tặng.
– Chúng ta lãnh nhận ơn công chính hoá nhờ bí tích Thánh tẩy, bí tích đức tin. Nhờ đó, ta được giải thoát và tâm hồn được thanh luyện khỏi những tội lỗi nghịch lại với tình yêu Thiên Chúa. Ơn công chính hoá giúp ta sống phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng dùng quyền năng của lòng thương xót biến đổi nội tâm ta nên công chính.
Tổ phụ Abraham được coi như mẫu mực cho mọi tín hữu (Rm 4,1-25). Thánh Phaolô vận dụng hai bản văn để làm nổi bật đức tin của Abraham : St 15,6 tường thuật rằng Abraham “tin vào Đức Chúa và vì thế, Đức Chúa coi ông là người công chính”, Tv 32,1-2 lập lại ý tưởng này : hạnh phúc cho người được Chúa kể là công chính, chứ không phải nhờ chu toàn Lề luật.
IV. AĐAM VÀ CHÚA KITÔ (5,12-19)
Rm 5,12-19 là bản văn quan trọng vẫn được Hội Thánh Công giáo dựa vào để giải thích về tội nguyên tổ. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng mọi người đều liên luỵ với tội của Ađam : “Do một người bất tuân, muôn người đã mang tội” (5,19); “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi đã gây nên sự chết. Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5,12). Tuy nhiên thánh Phaolô nhấn mạnh tính phổ quát của tội lỗi và sự chết là để làm nổi bật tính phổ quát của ơn cứu độ được ban tặng cho ta trong Chúa Kitô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (5,18). Và ơn cứu độ được ban trong Chúa Kitô cao quý hơn nhiều : “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, sẽ được sống và được thống trị” (5,17-18). Và thánh Phaolô reo lên, “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5,20).
Để giải thích sự liên đới trong tội lỗi cũng như trong ơn cứu độ, giáo lý Công giáo nhấn mạnh đến tính thống nhất của nhân loại như thánh Toma Aquino nói, “toàn thể nhân loại ở trong Ađam, như một thân thể duy nhất của con người duy nhất.” Chính vì tính thống nhất này mà mọi người đều liên luỵ với tội Ađam cũng như đồng hưởng sự công chính của Chúa Kitô. Thực ra việc lưu truyền tội nguyên tổ là một mầu nhiệm mà ta không thể hiểu thấu trọn vẹn. Chỉ nhờ mạc khải ta mới biết rằng Ađam đã được hưởng sự thánh thiện và công chính không phải cho riêng mình nhưng cho cả bản tính nhân loại. Vì thế, khi Ađam và Eva phạm tội, họ phạm tội với tính cá nhân nhưng tội đó ảnh hưởng đến cả bản tính con người, và bản tính bị suy yếu đó được truyền lại cho nhân loại. Cũng vì bản tính nhân loại đã bị suy yếu và nghiêng chiều về sự dữ, nên con người phải chiến đấu liên lỉ.
(Audio: Anh Tuấn)
[…] Tuần 85: Thư Rôma (chương 1 – 6) […]