Tuần 78 (Tuần 3 Tân Ước) THƯ THESSALONICA I & II
I. THESSALONICA I
Ngày nay các học giả Thánh Kinh quan tâm đến thư Thessalonica I nhiều hơn vì hai lý do:
(1) đây là một trong những văn bản Tân Ước sớm nhất ta có được (khoảng năm 51),
(2) trước kia người ta thường đọc Thessalonica I dựa vào sách Công Vụ nhưng bây giờ phải làm ngược lại, nghĩa là nhờ Thessalonica I mà ta hiểu sách Công Vụ tốt hơn, vì sách Công Vụ được viết sau Thessalonica 30-35 năm, và khi đó thánh Phaolô đã qua đời.
Chủ đề lớn của Thessalonica I là Ngày quang lâm của Chúa. Thánh Phaolô khuyên nhủ cộng đoàn giữ vững đức tin khi Ngày của Chúa gần kề, và họ phải sống cuộc sống thường ngày của mình cách bình tĩnh, có trách nhiệm và đầy tình yêu thương.
II. THESSALONICA II
Thư Thessalonica II là thư mục vụ bàn đến một số vấn đề nẩy sinh từ lời loan báo rằng Ngày Chúa đến đã gần kề. Một số người trong cộng đoàn đã phản ứng cách tiêu cực: sợ hãi, bỏ công ăn việc làm, gây phiền hà cho mình cũng như cho cộng đoàn.
Theo các học giả Thánh Kinh, lá thư này không do thánh Phaolô viết nhưng được viết dưới uy thế của thánh Phaolô. Dựa vào thế giá của thánh nhân, tác giả bàn đến cơn khủng hoảng đang xảy ra trong cộng đoàn của mình. Tác giả cũng tỏ ra rất quen với ngôn ngữ, ý tưởng và cách diễn tả của thư Thessalonica I.
III. NGÀY CỦA CHÚA
1. Ngày của Chúa và niềm an ủi cho các tín hữu đã qua đời (đọc 1 Thes 4,13-18)
Thánh Phaolô nói đến điều sẽ xảy ra cho các tín hữu đã qua đời trước Ngày Chúa quang lâm. Ngài khẳng định rằng những người này sẽ không bị gạt ra bên ngoài khi Chúa đến. Vì thế người Kitô hữu cũng buồn phiền khi mất người thân nhưng họ không thất vọng như những người không có đức tin. Nền tảng cho niềm hi vọng Kitô giáo là “chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại.”
Như thế những gì đã xảy ra cho Chúa thì cũng xảy đến cho người tin Chúa, nghĩa là họ được Thiên Chúa đưa về cùng với Đức Giêsu. Để diễn tả chân lý này, thánh Phaolô vận dụng ngôn ngữ khải huyền với tiếng loa, tiếng tổng lãnh thiên thần vang lên… Chúa từ trời ngự xuống (x. Mc 13; 1Cor 15,24-28). Điều quan trọng là mọi tín hữu, dù sống hay chết, đều được ở cùng Chúa mãi mãi.
2. Ngày của Chúa và niềm an ủi cho những người còn sống (1 Thes 5,1-11)
Vì Ngày của Chúa là biến cố cứu độ nên các Kitô hữu còn sống không phải sợ hãi và lo lắng về việc Ngày đó sẽ đến lúc nào và cách nào. Dù Chúa đến cách bất ngờ như kẻ trộm trong đêm tối (5,2), người Kitô hữu cũng không sợ hãi vì họ là con cái ánh sáng (5,5). Lý do sâu xa của niềm hi vọng đầy lạc quan này là hành động cứu độ của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì ta, để dù thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người” (5,9). Thức hay ngủ về mặt thể lý không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là thái độ tỉnh thức bên trong, được thể hiện qua lối sống “tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hi vọng” (5,8).
3. Ngày Chúa quang lâm và những điềm báo trước (2 Thes 2,1-12)
Tác giả trấn an những Kitô hữu bị dao động vì những lời tiên báo Ngày Chúa đến đã gần kề. Vào thời đó, có những lời tiên tri tự xưng là do Thánh Thần hoặc do những nhân vật quan trọng nói, khiến nhiều người bị dao động. Tác giả khuyến khích họ phải cố gắng tìm hiểu đâu là những thông tin chính xác và đáng tin. Lại chẳng phải là lời cảnh giác cho chính các Kitô hữu ngày nay sao, vì đôi khi chính chúng ta cũng bị dao động khi nghe những lời tiên báo về ngày tận thế. Đừng quên rằng đây cũng là một trong những lý do thúc đẩy Hội Thánh phải ấn định Kinh Bộ, tức là những sách được Hội Thánh nhìn nhận là do Chúa Thánh Thần linh hứng.
Cùng với lời trấn an, tác giả nói đến một vài biến cố sẽ xảy ra trước Ngày Chúa đến. Ở đây cần lưu ý là tác giả sử dụng truyền thống khải huyền để mô tả. Trước hết là hiện tượng chối đạo hàng loạt. Điều này khó xảy ra vào thời thánh Phaolô vì còn rất ít Kitô hữu, nhưng có thể phù hợp vào những thời cấm cách bách hại tôn giáo. Rồi sẽ có sự xuất hiện của “tên gian ác”, tên này không phải là Satan nhưng là một con người dưới sự thống trị của Satan, có quyền năng làm đủ thứ điềm thiêng dấu lạ để lường gạt con người. Tác giả nhấn mạnh đến “lòng yêu mến chân lý” như thái độ cần thiết để được cứu độ (câu 10). Đây cũng là lời cảnh giác cụ thể cho người Kitô hữu trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, để ta không dễ dàng chạy theo những lý thuyết hấp dẫn nhưng sai lạc mà đánh mất chân lý cứu độ.
(Audio: Anh Tuấn)
[…] Tuần 78: Thư Thessalonica I và II […]