Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần Archives | Phim Công giáo HD https://www.phimconggiao.com/tag/audio-bai-giang-kinh-thanh-100-tuan/ Phim Giáo dục gia đình Mon, 03 Feb 2020 01:38:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.1 Trọn bộ Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần https://www.phimconggiao.com/tron-bo-audio-bai-giang-kinh-thanh-100-tuan/ https://www.phimconggiao.com/tron-bo-audio-bai-giang-kinh-thanh-100-tuan/#comments Sun, 30 Jun 2019 17:20:59 +0000 https://www.phimconggiao.com/?p=14699 Website xin giới thiệu Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần trọn bộ của ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm. List danh sách bài giảng đã được website đăng tải cách đây 4 năm, hiện tại để tiện cho quý vị theo dõi,...

The post Trọn bộ Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Website xin giới thiệu Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần trọn bộ của ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm.

List danh sách bài giảng đã được website đăng tải cách đây 4 năm, hiện tại để tiện cho quý vị theo dõi, chúng tôi xin tổng hợp lại.

Download trọn bộ: https://drive.google.com/drive/folders/18iw8dDa6q7Y54wFCIR8JW04IlZH7VAOn

Dung lượng 1,2GB. Chọn download như hình hướng dẫn sau

+ Có 2 trường hợp như sau:

1. Nếu quý vị không đăng nhập tài khoản Gmail, sẽ thấy mục Download All ngay bên phải màn hình. Click tại đó và đợi Google thông báo

2. Nếu quý vị đăng nhập tài khoản Gmail vào trình duyệt sẽ phải Download như hình dưới (Vì mục download ẩn trong tên thư mục). Click theo hình dưới, và đợi Google thông báo.

Hướng dẫn download trọn bộ audio Kinh Thánh 100 Tuần
Hướng dẫn download trọn bộ audio Kinh Thánh 100 Tuần

Phần 1: Bài giảng Kinh Thánh Cựu Ước

I. Sách sáng thế

  1. Sách Sáng Thế Tuần 1
  2. Sa Ngã Và Niềm Hy Vọng
  3. Sách Sáng Thế Chương 5-11
  4. Sách Sáng Thế Chương 12-19
  5. Sách Sáng Thế Chương 20-25
  6. Sách Sáng Thế Chương 25-36
  7. Sách Sáng Thế Chương 37-50

II. Sách xuất hành

  1. Sách Xuất Hành Chương 1-7
  2. Sách Xuất Hành Chương 7-15
  3. Sách Xuất Hành Chương 16-24
  4. Sách Xuất Hành Chương 25-34
  5. Sách Xuất Hành Chương 35-40

III. Sách Lê Vi

  1. Tuần 13: Sách Lêvi, tổng quát
  2. Tuần 14: Sách Lêvi, chương 17 – 27

IV. Sách Dân số

  1. Tuần 15: Sách Dân Số, chương 1 – 12
  2. Tuần 16: Sách Dân số, chương 13 – 24
  3. Tuần 17: Sách Dân số, chương 25 – 36

V. Sách Đệ Nhị Luật

  1. Tuần 18: Sách Đệ Nhị Luật, chương 1-11
  2. Tuần 19: Sách Đệ Nhị Luật, chương 12-26
  3. Tuần 20: Sách Đệ Nhị Luật, chương 27-34

VI. Sách Gio-sua

  1. Tuần 21: Sách Gio-sua

VII. Sách Thủ Lãnh

  1. Tuần 22: Bài Giảng Kinh Thánh Sách Thủ Lãnh

VII. Sách Bà Rút

  1. Tuần 23: Bài Giảng Kinh Thánh Sách Bà Rút

VIII. Sách Samuel

  1. Tuần 24: Chương 1-15 sách Samuel 1
  2. Tuần 25: Chương 16-31 sách Samuel 1
  3. Tuần 26: Sách Samuel 2, chương 1-12
  4. Tuần 27: Sách Samuel 2, chương 13-34

IX. Sách Các Vua

  1. Tuần 28: Sách các vua quyển 1
  2. Tuần 29: Sách các vua quyển 1
  3. Tuần 30: Sách các vua quyển 2
  4. Tuần 31: Sách các vua quyển 2
  5. Tuần 35: Sách các vua quyển 2

X. Sách Amos

  1. Tuần 32: Bài Giảng Kinh Thánh Sách Amos

XI. Sách Hô-sê

  1. Tuần 33: Bài Giảng Kinh Thánh Sách Hôsê
  2. Tuần 34: Bài Giảng Kinh Thánh Sách Hôsê

XII. Sách Isaia

  1. Tuần 36 : Sách Isaia, chương 1-7
  2. Tuần 37: Sách Isaia, chương 8-12
  3. Tuần 38: Sách Isaia, chương 13-23
  4. Tuần 39: Sách Isaia, chương 24-39
  5. Tuần 51: Sách Isaia II, chương 40-48
  6. Tuần 52: Sách Isaia II, chương 49-55

XIII. Sách Mica

  1. Tuần 40: Sách Mica

XIV. Sách Nahum, Sophonia, Habakuc

  1. Tuần 41: Sách Nahum, Sophonia, Habakuc

XV. Sách Giêrêmia

  1. Tuần 42: Sách Giêrêmia
  2. Tuần 43: Sách Giêrêmia, chương 13 – 23
  3. Tuần 44: Sách Giêrêmia, chương 24 – 39
  4. Tuần 45: Sách Giêrêmia, chương 40 – 52

XVI.Sách Ai Ca – Barúc – Thư Giêrêmia

  1. Tuần 46: Sách Ai Ca – Barúc – Thư Giêrêmia

XVII. Sách Êzêkiel

  1. Tuần 47: Sách Êzêkiel, Chương 1-12
  2. Tuần 48: Sách Êzêkiel, Chương 13-24
  3. Tuần 49: Sách Êzêkiel, Chương 25-36
  4. Tuần 50: Sách Êzêkiel, Chương 37-48

XVIII. Một số sách khác

  1. Tuần 53: Sách Ezra Và Nehemia
  2. Tuần 54: Sách Haggai Và Zacaria I
  3. Tuần 55: Sách Giôen Và Malakhi
  4. Tuần 56, 57: Sách Isaia III, Chương 56-66, Sách Dacaria II
  5. Tuần 58: Sách Sử Biên Niên I & II
  6. Tuần 59: Sách Châm Ngôn, Chương 1-15
  7. Tuần 60: Sách Châm Ngôn, Chương 16-31
  8. Tuần 61: Sách Gióp, Chương 1-21
  9. Tuần 62: Sách Gióp, chương 22 – 42
  10. Tuần 63: Sách Diễm Ca
  11. Tuần 64: Sách Giảng Viên
  12. Tuần 65: Sách Giôna
  13. Tuần 66: Sách Tobia
  14. Tuần 67: Sách Giuditha Và Sách Esther
  15. Tuần 68: Sách Macabê 1
  16. Tuần 69: Sách Macabê 2
  17. Tuần 70: Sách Daniel, Chương 1 – 6
  18. Tuần 71: Sách Daniel, Chương 7 – 12
  19. Tuần 72: Sách Huấn Ca
  20. Tuần 73: Sách Khôn Ngoan
  21. Tuần 74: Sách Thánh Vịnh
  22. Tuần 75: Thánh Vịnh tạ ơn

Phần 2: Bài giảng Kinh Thánh Tân Ước

I. Tin Mừng theo Thánh Marco

  1. Tuần 76: Tin Mừng theo Thánh Marco
  2. Tuần 77: Tin Mừng theo Thánh Marco

II. Tin Mừng theo Thánh Mattheu

  1. Tuần 90: Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 1-6)
  2. Tuần 91: Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 7-12)
  3. Tuần 92: Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 13-19)
  4. Tuần 93: Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 20-25)
  5. Tuần 94: Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 26-28)

III. Tin Mừng theo Thánh Luca

  1. Tuần 97: Tin Mừng theo Thánh Luca (Chương 1-6)
  2. Tuần 98: Tin Mừng theo Thánh Luca (Chương 7-13)
  3. Tuần 99: Tin Mừng theo Thánh Luca (chương 14-19)
  4. Tuần 100: Tin Mừng theo Thánh Luca (chương 19 – 24)

IV. Tin mừng theo Thánh Gioan

  1. Tuần 111: Tin Mừng Gioan (Chương 1 – 6)
  2. Tuần 112: Tin Mừng Gioan (Chương 6 – 12)
  3. Tuần 113: Tin Mừng Gioan (Chương 13 – 17)
  4. Tuần 114: Tin Mừng Gioan (Chương 18-21)

V. Sách Công vụ Tông Đồ

  1. Tuần 101: Sách Công vụ Tông đồ (chương 1 – 8)
  2. Tuần 102: Sách Công vụ Tông đồ (chương 9 – 18)
  3. Tuần 103: Sách Công vụ Tông đồ (chương 18 – 28)

VI. Sách các thư

  1. Tuần 78: Thư Thessalonica I và II
  2. Tuần 79: Thư Ga-lát
  3. Tuần 80: Thư thứ nhất Côrintô (chương 1 – 7)
  4. Tuần 81: Thư thứ nhất Côrintô (chương 8 – 12)
  5. Tuần 82: Thư thứ nhất Côrintô (chương 13 – 16)
  6. Tuần 83: Thư thứ hai Côrintô (chương 1 – 7)
  7. Tuần 84: Thư thứ hai Côrintô (chương 8 -13)
  8. Tuần 85: Thư Rôma (chương 1 – 6)
  9. Tuần 86: Thư Rôma (chương 6 – 11)
  10. Tuần 87: Thư Rôma (chương 12 – 16)
  11. Tuần 88: Thư Philipphê và thư Philêmon
  12. Tuần 89: Thư Côlôsê và thư Êphêsô
  13. Tuần 95: Thư Do Thái (Chương 01-07)
  14. Tuần 96: Thư Do Thái (Chương 7-13)
  15. Tuần 104: Thư 1 & 2 Timôthê – Thư gửi Titô
  16. Tuần 105: Thư của Thánh Giacôbê
  17. Tuần 106: Thư thứ nhất của Thánh Phêrô
  18. Tuần 107: Thư thứ hai của Thánh Phêrô và thư Thánh Giuđa
  19. Tuần 108: Các thư của Thánh Gioan

VII. Sách khải huyền

  1. Tuần 109: Khải Huyền (Chương 1 – 11)
  2. Tuần 110: Khải Huyền (Chương 12 – 22)

The post Trọn bộ Audio Bài giảng Kinh Thánh 100 Tuần appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tron-bo-audio-bai-giang-kinh-thanh-100-tuan/feed/ 4
Tiên tri giả [Audio bài giảng] https://www.phimconggiao.com/tien-tri-gia/ https://www.phimconggiao.com/tien-tri-gia/#comments Mon, 28 May 2018 03:26:58 +0000 http://www.luca15.com/phim/?p=1178 Tiên Tri Giả – Audio Bài Giảng Thánh Kinh 100 Tuần Bài Giảng của ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm Hạch tội các ngôn sứ giả 1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các...

The post Tiên tri giả [Audio bài giảng] appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tiên Tri Giả – Audio Bài Giảng Thánh Kinh 100 Tuần

Bài Giảng của ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm

Hạch tội các ngôn sứ giả

1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các ngôn sứ của Ít-ra-en, hãy tuyên sấm; hãy bảo bọn ngôn sứ chỉ nói theo ý mình: Các ngươi hãy nghe lời Ðức Chúa. 3 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho hạng ngôn sứ ngu si, chỉ theo thần khí riêng và chẳng thấy gì. 4 Hỡi Ít-ra-en, các ngôn sứ của ngươi giống như bầy sói ở giữa đống hoang tàn đổ nát.

5 Các ngươi không lên lỗ hổng mà cũng chẳng xây tường bảo vệ nhà Ít-ra-en, để nó có thể cầm cự trong cuộc chiến đấu vào ngày của Ðức Chúa. 6 Chúng thuật lại những thị kiến hão huyền và những lời sấm dối trá, lại còn dám nói: “Sấm ngôn của Ðức Chúa.” Nhưng Ðức Chúa đâu có sai chúng đi; chúng mong đợi Người thực hiện lời chúng nói. 7 Các ngươi đã thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá, lại còn bảo: “Sấm ngôn của Ðức Chúa”, trong khi chính Ta chẳng tuyên phán gì cả, có phải thế không?

8 Bởi vậy, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Vì các ngươi nói lời hão huyền và thấy thị kiến dối trá, nên Ta đây sẽ trừng phạt các ngươi – sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 9 Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng ngôn sứ thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá. Chúng sẽ không được nhận vào hàng cố vấn cho dân Ta, không được ghi tên vào sách nhà Ít-ra-en, không được vào đất Ít-ra-en. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, là Chúa Thượng. 10 Bởi vì chúng đã làm cho dân Ta lạc đường khi nói rằng: “Hoà bình”, mà thực ra chẳng có hoà bình; trong khi dân xây tường thì chúng lại trát vôi lên tường. 11 Hãy nói với kẻ trát vôi: Sẽ có mưa lũ, mưa đá; gió bão sẽ nổi lên, 12 và này tường sẽ đổ. Bấy giờ, thiên hạ lại chẳng nói với các ngươi: Nước vôi các ngươi đã trát lên đâu rồi? 13 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khi Ta trút cơn lôi đình, Ta sẽ cho gió bão nổi lên; lúc thịnh nộ, Ta sẽ cho mưa lũ trút xuống; trong cơn lôi đình, Ta sẽ cho mưa đá đổ xuống để tiêu diệt. 14 Ta sẽ triệt hạ bức tường mà các ngươi đã trát vôi, sẽ san cho bình địa, và chân móng sẽ lộ ra. Tường sẽ đổ và các ngươi sẽ bị tiêu diệt dưới bức tường đổ ấy. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.

15 Ta sẽ trút hết cơn thịnh nộ của Ta xuống bức tường và người trát vôi lên nó. Ta sẽ phán với các ngươi: Không còn tường, cũng chẳng còn người trát vôi 16 là các ngôn sứ của Ít-ra-en đã tuyên sấm về Giê-ru-sa-lem và có những thị kiến hoà bình về nó, mà chẳng có hoà bình – sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.

Các nữ ngôn sứ giả

17 Còn ngươi, hỡi con người, hãy quay mặt về phía các phụ nữ của dân ngươi, là những kẻ dám tuyên sấm theo ý mình; hãy tuyên sấm hạch tội chúng. 18 Ngươi sẽ nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Khốn cho những kẻ khâu những dải băng trên mọi cổ tay và làm khăn che đầu đủ cỡ để săn bắt mạng người. Có phải các ngươi định săn bắt mạng sống của dân Ta và giữ mạng sống của các ngươi không? 19 Các ngươi đã xúc phạm đến Ta nơi dân Ta chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các ngươi giết chết người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không đáng sống, trong khi các ngươi đánh lừa dân Ta là những kẻ quen nghe lời dối trá.

20 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta chống lại các dải băng mà các ngươi dùng để săn bắt mạng người như săn bắt chim; Ta sẽ giựt chúng khỏi tay các ngươi và thả những mạng người các ngươi đã săn bắt như săn bắt chim. 21 Ta sẽ xé khăn của các ngươi và sẽ giải thoát dân Ta khỏi tay các ngươi; chúng sẽ không còn là miếng mồi trong tay các ngươi nữa. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.

22 Bởi vì các ngươi đã dùng điều dối trá mà làm cho tâm hồn người chính trực phải buồn phiền, trong lúc Ta không muốn làm cho nó phải buồn phiền, bởi vì các ngươi đã tiếp tay cho kẻ gian ác đến nỗi nó không từ bỏ con đường xấu xa của mình mà được số

The post Tiên tri giả [Audio bài giảng] appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tien-tri-gia/feed/ 2
Tuần 114: Tin Mừng Gioan (Chương 18-21) https://www.phimconggiao.com/tuan-114-tin-mung-gioan-chuong-18-21/ https://www.phimconggiao.com/tuan-114-tin-mung-gioan-chuong-18-21/#comments Sat, 14 Feb 2015 14:10:54 +0000 http://www.luca15.com/?p=3689 Tuần 116: TIN MỪNG GIOAN (Chương 18-21) CUỘC THƯƠNG KHÓ (18,1 – 19,42) Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa là trình thuật hết sức quan trọng. Tuy nhiên, vì bài tường thuật quá dài, ta hãy tạm bằng lòng...

The post Tuần 114: Tin Mừng Gioan (Chương 18-21) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 116: TIN MỪNG GIOAN (Chương 18-21)

CUỘC THƯƠNG KHÓ (18,1 – 19,42)

Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa là trình thuật hết sức quan trọng. Tuy nhiên, vì bài tường thuật quá dài, ta hãy tạm bằng lòng với việc nhìn lại lược đồ tổng quát và một vài nét đặc trưng trong trình thuật của Gioan.
1.      Chúa Giêsu bị bắt (18,1-11)
2.      Chúa Giêsu ra trước toà Anna và Caipha, Phêrô chối Thầy (18,12-27)
3.      Chúa Giêsu trước toà Philatô (18,28 – 19,16)
4.      Đóng đinh vào thập tự (19,16-22)
5.      Chúa Giêsu bị lột áo (19,23-24)
6.      Mẹ của Chúa Giêsu và người môn đệ Chúa yêu (19,25-27)
7.      Chúa Giêsu tắt thở (19,28-30)
8.      Lưỡi đòng đâm thâu (19,31-37)
9.      Táng xác (19,38-42)

Mẹ của Chúa Giêsu và người môn đệ Chúa yêu (19,25-27)

Về mặt tự nhiên, đây là câu truyện cảm động về một người con trong giờ hấp hối vẫn ưu tư lo lắng cho mẹ già còn ở lại. Tuy nhiên, nếu câu truyện này được tác giả đặt vào thời điểm quan trọng nhất của Tin Mừng, thì ắt hẳn không chỉ là thế. Câu hỏi được đặt ra là: sự kiện này muốn diễn tả điều gì?
Đã có nhiều gợi ý và suy tư từ trình thuật quan trọng này. Ở đây xin đề nghị đặt trình thuật vào bối cảnh Chúa Giêsu trao ban Thần Khí (19,30) và máu cùng nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu (19,34). Đặt mình vào bối cảnh trên, trình thuật này như muốn nói về sự sinh hạ cộng đoàn Kitô hữu. Đây là giờ Chúa Giêsu được tôn vinh – được giương cao – và khi Người chết, Người trao ban Thần Khí của Người. Dưới chân thập giá là hai người, cả hai đều không được gọi tên rõ ràng (là Maria và Gioan) như thể muốn nhấn mạnh tính biểu tượng. Người phụ nữ ở đây như hình ảnh của Mẹ Hội Thánh, và người môn đệ Chúa yêu là hình ảnh của tất cả các môn đệ được kêu gọi bước theo Chúa Giêsu. Thần Khí được trao ban cho Mẹ-Hội Thánh và người môn đệ Chúa yêu, máu cùng nước là dấu chỉ của Thánh Tẩy và Thánh Thể. Dĩ nhiên đây chỉ là một gợi ý suy nghĩ về trình thuật đặc biệt này của Gioan.
Cũng có một gợi ý khác về mối liên hệ giữa người phụ nữ trong trình thuật này với người phụ nữ trong Sáng Thế 3,15, cũng như mối thù nghịch giữa dòng giống người phụ nữ với dòng giống con rắn-ma quỷ. Thánh Gioan quan tâm đặc biệt đến sách Sáng Thế. Ngài bắt đầu  Tin Mừng thứ tư bằng lời gợi nhớ câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1) và “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngài cũng trình bày cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và Satan: “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31). Và về con cái ma quỷ: “Cha các ông là ma quỷ và các ông muốn làm chứng về những gì cha các ông ham thích” (Ga 8,44). Nếu người phụ nữ trong trình thuật này ám chỉ về người phụ nữ trong St 3,15, thì phải nói là thánh sử Gioan đã tập hợp ở đây tất cả những yếu tố trong trình thuật của sách Sáng Thế: con rắn, dòng giống của nó, người phụ nữ, dòng giống của bà, và có lẽ cả chi tiết “khu vườn”. Câu chuyện sách Sáng Thế diễn ra ở vườn địa đàng, còn trình thuật thương khó của Gioan cũng bắt đầu từ một thửa vườn: “Sau khi nói những lời đó, Chúa Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Cypron. Ở đó có một thửa vườn. Người vào đó với các môn đệ” (Ga 18,1). Và kết thúc ở một thửa vườn: “Nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Chúa Giêsu ở đó” (Ga 19,41-42).
Như thế, Tin Mừng Gioan trình bày Đức Maria dưới chân thập giá với hai vai trò:
–         Đức Maria là hình ảnh của Mẹ Hội Thánh. Người mẹ này chăm sóc các môn đệ Chúa, các môn đệ trở nên con của Mẹ và là anh chị em của Chúa Giêsu. Mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu không chỉ là quan hệ cá nhân nhưng bao hàm một cộng đoàn, một gia đình của những người anh chị em.
–         Đức Maria là hình ảnh người phụ nữ chiến thắng. Hình ảnh tiêu cực về người nữ nơi Eva đã được thay thế bằng hình ảnh tích cực của Đức Maria.

TIN MỪNG PHỤC SINH (20,1-31)

 

1. Các nhân vật

Thánh Gioan xây dựng trình thuật này rất công phu, và qua phản ứng của các nhân vật trong trình thuật, ngài gói ghém suy tư của ngài về Tin Mừng Phục sinh, tập trung vào câu hỏi: những nhân vật đó đã tiến đến niềm tin vào Đấng Phục sinh như thế nào?
Maria thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mồ và phản ứng của bà là “Người ta đã lấy xác Thầy rồi”. Bà chưa tin. Rồi trong cảnh kế tiếp (câu 11-18), bà vẫn giữ cách giải thích cũ (câu 13 và 15). Bà chỉ tin khi được nghe tiếng Chúa (câu 16) và thấy Chúa (câu 18). Chiên của Chúa nhận ra tiếng Chúa (x. Ga 10,4).
Phêrô và người môn đệ Chúa yêu chạy đến mộ. Họ thấy khăn liệm và khăn che đầu. Phêrô vẫn bối rối nhưng người môn đệ Chúa yêu thì tin: “Ông đã thấy và đã tin” (câu 8). Ông chỉ thấy một chút dấu chỉ nhưng ông tin. Ông lại là môn đệ được yêu và đang yêu. Phải chăng tình yêu ban tặng cho chúng ta cặp mắt mới?
Các môn đệ khác (câu 19-25): bắt đầu là sợ hãi rồi từ sợ hãi chuyển sang niềm vui khi thấy Chúa (câu 20). Đối với họ cũng thế, đức tin đến từ chỗ xem thấy.
Tôma là nhân vật nổi bật trong cảnh cuối (câu 19-25). Ông nhất định không tin cho đến khi tận mắt nhìn thấy và tận tay sờ được (câu 25). Và Chúa Giêsu đã thoả mãn yêu cầu của ông, nhưng Người mời gọi đi xa hơn (câu 27).

2. Niềm tin vào Chúa Phục sinh

Qua những nhân vật này, thánh Gioan muốn nói đến phản ứng và thái độ của những con người trong thời đại ngài trước niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đây cũng là dịp để mỗi chúng ta tra vấn niềm tin của chính mình: Tôi bối rối như Phêrô? Hay như người môn đệ Chúa yêu, chỉ cần chút dấu chỉ là đủ tin rồi? Hay như bà Maria và các môn đệ khác, phải tận mắt thấy và nghe rồi mới tin? Hay cực đoan như Tôma, đại diện của chủ thuyết thực nghiệm? Ước gì ta mang lấy tâm tình của người môn đệ Chúa yêu, vì “phúc cho những ai không thấy mà tin” (20,29).

ĐOẠN KẾT (chương 21)

Đoạn kết này gồm những trình thuật quan trọng:
–         Mẻ lưới đặc biệt (21,1-14),
–         Simon Phêrô, người mục tử (21,15-23)
–         Kết thúc (21,14-25)

Rõ ràng chương 20 đã là phần kết sách Tin Mừng thứ tư, cho nên các học giả cho rằng chương 21 là phần được thêm vào sau này. Có thể là do một môn đệ thân tín của thánh Gioan. Tuy nhiên phần thêm vào này có giá trị quan trọng. Nếu 20 chương trước tập trung vào Chúa Giêsu, Đấng Mặc khải và Đấng Cứu độ, thì chương 21 là một bước tiếp nối từ Chúa Giêsu đến Giáo Hội của Người. Để Chúa Giêsu có thể tiếp tục công trình cứu độ của Người thì cần có những trung gian : Tiệc Thánh Thể ở đó Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với Giáo Hội và trong Giáo Hội, nhiệm vụ mục tử của Phêrô và những người kế nhiệm, vai trò của người môn đệ Chúa yêu cũng như của Giáo Hội.

(Audio: Anh Tuấn)

The post Tuần 114: Tin Mừng Gioan (Chương 18-21) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-114-tin-mung-gioan-chuong-18-21/feed/ 1
Tuần 113: Tin Mừng Gioan (Chương 13 – 17) https://www.phimconggiao.com/tuan-113-tin-mung-gioan-chuong-13-17/ https://www.phimconggiao.com/tuan-113-tin-mung-gioan-chuong-13-17/#comments Sat, 14 Feb 2015 14:02:59 +0000 http://www.luca15.com/?p=3686 Tuần 113: TIN MỪNG GIOAN (Chương 13-17) RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ (13,1-30) Với chương 13, chúng ta chuyển từ Sách của những dấu lạ sang Sách vinh quang, nghĩa là nói đến sự chết và sự phục sinh của...

The post Tuần 113: Tin Mừng Gioan (Chương 13 – 17) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 113: TIN MỪNG GIOAN (Chương 13-17)

RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ (13,1-30)

Với chương 13, chúng ta chuyển từ Sách của những dấu lạ sang Sách vinh quang, nghĩa là nói đến sự chết và sự phục sinh của Chúa. Sách này gồm những diễn từ ly biệt (chương 13-17), trình thuật về cuộc thương khó (chương 18-19), sự phục sinh (chương 20) và phần kết (chương 21). Ở đây chỉ tập trung vào trình thuật rửa chân (13,1-30).

1. Bài học luân lý

Một lần nữa, tác giả nói đến lễ Vượt qua nhưng đây sẽ là cuộc vượt qua của chính Chúa Giêsu, từ thế gian mà về cùng Cha (13,1.3). Trong trình thuật này, Chúa Giêsu vốn là tôi tớ của Thiên Chúa nay lại trở thành tôi tớ loài người. Giờ của Người đã đến và Người yêu thương những kẻ thuộc về Người đến cùng (13,1), đến cùng thời gian và đến cùng sức lực. Vì chính Chúa Giêsu đã làm nhiệm vụ người tôi tớ nên chúng ta, các môn đệ của Người, cũng được mời gọi rửa chân cho nhau: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (câu 15). Bài học về phục vụ đã rất rõ ràng và đầy sức thuyết phục.

2. Ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu

Tuy nhiên, trình thuật này còn chất chứa những giáo huấn sâu xa hơn nữa. Khi Phêrô phản đối, không chấp nhận để Thầy rửa chân cho (cũng như ông đã phản đối lời loan báo về cuộc thương khó của Chúa trong Mc 8,32), Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy việc được rửa chân quan trọng thế nào, đến độ nếu không chấp nhận để Chúa rửa chân thì không được chung phần với Chúa (câu 8). Câu này cho thấy trình thuật rửa chân không chỉ hàm chứa một bài học luân lý nhưng còn nói lên nhiều giáo huấn quan trọng :
– Ám chỉ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu trong tư cách người tôi tớ. Nếu so sánh trình thuật rửa chân với thánh thi trong thư Philip 2,5-12, ta sẽ hiểu việc rửa chân ở đây nói đến mầu nhiệm huỷ mình ra không (kenosis) của Chúa Giêsu, cũng là mầu nhiệm tôn vinh.
– Hơn thế nữa, trình thuật này còn là giáo huấn về bí tích thánh tẩy. Lãnh nhận bí tích thánh tẩy là được dự phần vào cái chết cứu độ của Chúa, được sạch và không cần phải rửa nữa. Thánh Phaolô diễn tả cách khác là được dìm vào trong sự chết của Chúa để được sống lại với Người. Hiểu như thế, lãnh nhận bí tích thánh tẩy không chỉ là làm một nghi thức mà là đón nhận một lối sống, lối sống yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu (câu 15).

LỜI NGUYỆN LINH MỤC (chương 17)

Chương 17 thường được gọi là Lời nguyện linh mục vì ở đây, Chúa Giêsu cầu nguyện trực tiếp với Chúa Cha cho các tín hữu hiện tại cũng như tương lai. Lời kinh chuyển cầu này nói lên chức năng tư tế, đồng thời sự “thánh hiến” mà Chúa Giêsu nói đến ở câu 19 cũng liên hệ đến vai trò tư tế dâng hy tế.

1. Phân đoạn và nội dung

Chúa Cha và Chúa Con (câu 1-5)

Trong 5 câu này, Chúa Giêsu nói trực tiếp với Chúa Cha. Giờ đã đến, giờ tôn vinh, nghĩa là giờ biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự sống đời đời chính là nhận biết sự hiện diện này, “nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”. Chúa Giêsu đã biểu lộ sự hiện diện của Chúa Cha, đã hoàn tất công việc được trao phó. Bản chất đích thực của Thiên Chúa là Tình Yêu sắp được bày tỏ nơi cái chết hy tế của Chúa Giêsu.

Chúa Con và các môn đệ (câu 6-19)

Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ điều gì? Ngài xin Chúa Cha cho họ :
– được Chúa Cha bảo vệ: “Xin gìn giữ chúng trong Danh Cha mà Cha đã ban cho con” (câu 11)
– được hiệp nhất trên nền tảng và theo khuôn mẫu kết hợp sâu xa giữa Cha và Con: “để chúng nên một như chúng ta là một” (câu 11)
– để những đau khổ của họ được biến thành niềm vui: “để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (câu 13)
– được gìn giữ khỏi ác thần: “xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (câu 15)
– để họ được thánh hiến, hoàn toàn hiến thân phục vụ Chúa: “xin thánh hiến chúng trong sự thật” (câu 17)

Chúa Con và các môn đệ tương lai (câu 20-26)

Đối với các môn đệ trong tương lai, ân huệ duy nhất mà Chúa Giêsu khẩn nài là ơn hiệp nhất: “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (câu 21-23). Chỉ với chứng tá hiệp nhất này, sứ vụ của Giáo hội mới có kết quả, bởi vì chỉ khi các môn đệ hiệp nhất yêu thương nhau thì thế gian mới tin, mới nhận biết rằng Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu đến trong thế gian, và gặp được nơi các môn đệ chính tình yêu của Chúa Cha.

2. Những chủ đề chính

Chỉ trong một lời nguyện, Chúa Giêsu kêu lên “abba” (cha ơi) những 6 lần. Tên gọi này diễn tả sự kết hợp sâu xa và thân tình giữa Chúa Giêsu và Cha của Người.

Hiệp nhất là ân huệ được nhấn mạnh đặc biệt: hiệp nhất giữa các môn đệ trong hiện tại cũng như tương lai, sự hiệp nhất theo khuôn mẫu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, sự hiệp nhất bắt nguồn từ tình yêu của Ba Ngôi.

Tình yêu là từ ngữ thường xuyên được nhắc đến: tình yêu của Chúa Cha với Chúa Giêsu (câu 23-24), với các môn đệ (câu 23). Mạc khải lớn nhất của Tin Mừng chính là Tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, Giáo hội phải là một cộng đồng tình yêu, dấu chỉ sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian.

“Thế gian” là từ ngữ được sử dụng 17 lần trong chương này. Theo nghĩa xấu, thế gian là nơi chốn của bất tín, hận thù, căm ghét, hoàn toàn ngược lại với tình yêu là đòi hỏi mà các Kitô hữu phải sống. Giuđa (được nhắc đến trong câu 12) là minh hoạ cụ thể về sự khước từ ánh sáng và sự sống để nộp mình cho đêm tối và chết chóc. Người môn đệ Chúa sống trong thế giới vật lý này nhưng không chấp nhận sống theo não trạng vô đạo của nó. Câu 21 và 23 cho thấy Chúa Giêsu tin tưởng rằng nhờ chứng tá hiệp nhất yêu thương của các môn đệ, thế gian sẽ tin và nhận biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cha sai đến.

(Audio: Anh Tuấn)

The post Tuần 113: Tin Mừng Gioan (Chương 13 – 17) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-113-tin-mung-gioan-chuong-13-17/feed/ 1
Tuần 112: Tin Mừng Gioan (Chương 6 – 12) https://www.phimconggiao.com/tuan-112-tin-mung-gioan-chuong-6-12/ https://www.phimconggiao.com/tuan-112-tin-mung-gioan-chuong-6-12/#comments Sat, 14 Feb 2015 13:06:41 +0000 http://www.luca15.com/?p=3684 Tuần 112 TIN MỪNG GIOAN (Chương 6-12) —–o0o—– HOÁ BÁNH RA NHIỀU (6,1-15) Lễ Vượt qua là lễ bánh không men, vì thế ghi chú về lễ Vượt qua (câu 4) có mục đích chuẩn bị cho chúng ta hiểu về...

The post Tuần 112: Tin Mừng Gioan (Chương 6 – 12) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 112 TIN MỪNG GIOAN (Chương 6-12)

—–o0o—–

HOÁ BÁNH RA NHIỀU (6,1-15)

Tuần 112: Tin Mừng Gioan (Chương 6 – 12)

Lễ Vượt qua là lễ bánh không men, vì thế ghi chú về lễ Vượt qua (câu 4) có mục đích chuẩn bị cho chúng ta hiểu về dấu lạ hoá bánh ra nhiều sắp xẩy ra. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng kể lại (Marco kể hai lần 6,31-34 và 8,1-10; Matthêu kể hai lần 14,13-21 và 15,32-38; Luca 9,10-17). Sự kiện đó cho thấy tầm quan trọng của trình thuật này trong đời sống Giáo Hội sơ khai. Thật vậy, những gì Chúa Giêsu đã làm khi hoá bánh ra nhiều trở thành chuẩn mực cho việc cử hành Thánh Thể trong các cộng đoàn. Trong trình thuật của Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra trao cho… Các thừa tác viên cũng làm như thế khi cử hành Thánh Thể. Trình thuật của Gioan cũng mang tính nghi lễ như thế, nhưng ngài thêm một chi tiết vốn là nét đặc trưng của Kitô giáo : Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, và phân phát (6,11). Trong tiếng Hi lạp, từ mà ta dịch làtạ ơneucharisteo, cũng là từ được dùng để nói về Thánh Thể. Thánh Gioan còn nhắc lại ý nghĩa này ở 6,23: “Có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.”

Thánh Gioan gọi phép lạ này là dấu lạ: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói…” (6,14). Dấu lạ này có mục đích làm cho mọi người khám phá ra Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự sống, chủ đề sẽ được Gioan khai triển trong suốt chương 6. Phản ứng của dân chúng ở câu 14, “Hẳn ông này là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian”, nhắc nhớ đến vị tiên tri như Môsê (x. Đnl 18,15.18) mà người ta mong đợi sẽ xuất hiện vào thời cuối cùng. Như Môsê đã nuôi dân bằng manna trong sa mạc thì Chúa Giêsu cũng nuôi dân như thế.

Ghi nhận cuối cùng nên quan tâm là hai môn đệ được nêu tên trong trình thuật này là Philipphê và Anrê. Đây cũng là hai vị đã giới thiệu Nathanael và Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1,41.45). Sau này, cũng chính hai vị này trở thành tông đồ cho người Hi Lạp (12,20-22). Như thế, vai trò của hai vị tông đồ này được quan tâm đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Đồng thời, những ghi nhận trên cũng thoáng mở chiều kích truyền giáo của dấu lạ hoá bánh ra nhiều : Chúa Giêsu làm phép lạ không chỉ để thoả mãn cơn đói chóng qua của con người nhưng để giúp người ta nhận ra Ngài là Bánh hằng sống.

NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH (9,1-41)

Trình thuật này được xây dựng rất công phu như một vở kịch sống động với 6 cảnh tuần tự diễn ra, với những cuộc đối thoại sâu sắc và những nhân vật đủ sắc màu. Điều quan trọng là cố gắng nắm bắt những giáo huấn mà thánh sử muốn trao gửi cho người đọc.

1. Ý nghĩa Phép Rửa

Điều chắc chắn là trình thuật này đã được vận dụng vào việc dạy giáo lý về Phép Rửa. Không phải vô tình mà thánh Gioan ghi chú rằng người mù đi rửahồ Siloe, ( Siloe có nghĩa là người được sai đến). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu chính là người được sai đến. Như thế, thánh Gioan không chỉ kể chuyện người mù mắt được chữa lành nhưng qua đó, ngài còn muốn nói đến việc chữa lành sự mù loà thiêng liêng. Việc chữa lành này được ban cho những ai chịu Phép Rửa : họ được rửa trongĐấng được sai đến, nghĩa là chính Chúa Giêsu (chịu Phép Rửa là dìm mình vào trong Chúa).

Ngoài ra, nên ghi nhận sự khai mở từng bước nơi người mù được chữa lành : lúc đầu anh chỉ nói đến một người tên là Giêsu (câu 11), sau đó anh gọi ngài là tiên tri (câu 17), rồi là người từ Thiên Chúa mà đến (câu 33), rồi là Con Người (câu 35) và đỉnh cao là anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu, một cử chỉ thờ phượng dành cho Thiên Chúa (câu 38). Cũng vậy, sau khi đã lãnh nhận Phép Rửa, người tân tòng từng bước được dẫn sâu hơn vào hành trình đức tin, khám phá nội dung đức tin, sống đời thờ phượng và đạo đức theo chuẩn mực của Tin Mừng. Nhân cơ hội này, ta cần xem xét lại cách dạy giáo lý dự tòng trong cộng đoàn giáo xứ của mình. Phải chăng nhiều khi ta đã làm quá vội vã, chưa giúp người dự tòng hiểu biết, yêu mến Chúa và thực hành cho đúng theo Lời Chúa dạy?

2. Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân

Về mặt văn chương, câu chuyện về người mù vừa hài hước vừa thâm thuý. Những người tự cho là mình sáng mắt, thấy rõ, thì hoá ra lại mù, và mù chẳng phải vì tai nạn do ai gây ra nhưng do chính mình muốn thế : “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn” (câu 41). Ngược lại, kẻ mù loà nhưng dám liều mình làm theo lời Chúa Giêsu (câu 6) thì lại “thấy”. Cái thấy này ban đầu chỉ là thấy bên ngoài (sight) nhưng rồi được dẫn đến cái thấy bên trong (in-sight). Chúa Kitô chính là ánh sáng muôn dân để trong Ngài, chúng ta nhìn thấy ánh sáng. Có nhiều thái độ khiến ta không đón nhận được ánh sáng và cứ ở mãi trong cảnh mù loà : từ nỗi sợ hãi như cha mẹ của anh mù (câu 23) đến những thành kiến và tính toán của người Pharisêu và giới cầm quyền (câu 13-17). Cần khiêm tốn nhận diện chính mình trong những nhân vật đó để có thể mở mắt mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa.

3. Cộng đoàn của Gioan

Câu truyện về người mù còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn Giáo Hội đương thời. Câu 22 ghi nhận rằng “Người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” Câu 34 ghi nhận sau khi được chữa lành và đối chất với những người cầm quyền, anh mù bị trục xuất khỏi hội đường. Những ghi nhận này phản ánh sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các Kitô hữu và người Do thái. Vào thời Chúa Giêsu, kể cả thời thánh Phaolô đi rao giảng Tin Mừng, mối quan hệ này chưa đến nỗi nặng nề. Tuy nhiên, tình hình ngày càng xấu đi, nhất là khi các Kitô hữu nhấn mạnh Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Có thể thấy điều đó khi trong lời cầu nguyện tại hội đường Do thái, có cả lời nguyền rủa những kẻ rối đạo như những tên Kitô hữu! Không có Kitô hữu gốc Do thái nào có thể chấp nhận lời cầu nguyện như thế, và đó là lý do họ bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Như thế, ở bất cứ thời đại nào, sống niềm tin vào Chúa Giêsu vẫn luôn là một thách đố. Nhưng chính những thách đố ấy có thể thúc bách ta dấn thân hơn và sống niềm tin sâu sắc hơn như anh mù trong câu truyện: “Anh nói : Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (9,38).

PHỤC SINH LADARÔ (11,1-54)

Chúa Giêsu vừa là sự sống vừa là sự sống lại (11,25) và phép lạ phục sinh Ladarô chính là dấu chỉ cho lời khẳng định đó.

1. Matta và Maria

Không chỉ trong Tin Mừng Gioan, hai chị em Matta và Maria còn được nhắc đến trong Luca 10,38-42, và cả hai tác giả đều cho thấy tính cách của mỗi người. Matta xuất hiện như một người năng động nên trong Luca 10,40, chị rất bận rộn trong chuyện đón tiếp Chúa Giêsu, và trong Gioan 11,20, chị cũng là người mau mắn ra gặp Chúa Giêsu trước. Còn Maria thì ngồi ở nhà, sau đó thì dưới chân Chúa (Ga 11,20. 32), cũng giống như Maria trong Luca 10,39 ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Người.

2. Ladarô

Có điều lạ là Tin Mừng Luca không nói gì đến người em trai là Ladarô. Trong Luca có dụ ngôn về Ladarô nhưng Ladarô ở đây là một người nghèo, suốt đời khổ sở, cuối cùng được ở trong lòng Abraham. Dụ ngôn này kết thúc bằng lời cảnh cáo rất đặc biệt của Chúa Giêsu : “Nếu chúng không nghe theo Môsê và các tiên tri, thì dù có kẻ chết sống lại, chúng cũng không nghe đâu” (Lc 16,31). Nghĩa là cũng nói đến chuyện kẻ chết sống lại. Vậy có sự trùng hợp nào chăng giữa hai nhân vật Ladarô? Phải chăng thánh Gioan đã biến người hành khất trong Tin Mừng Luca thành người em trong gia đình của Matta và Maria? Không phải thế, những gì thánh Gioan kể lại đều là người thật việc thật, ở đây chỉ muốn ghi nhận sự gần gũi giữa hai bản văn.

3. Sự hồi sinh của Ladarô và sự phục sinh của Chúa Giêsu

Nếu so sánh trình thuật về sự hồi sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa (chương 20), có nhiều nét song đối với nhau :

– Maria than khóc ở gần mộ (11,31 và 20,11)

– Ngôi một bị tảng đá che kín (11,38 và 20,1)

– Khăn liệm và khăn che mặt (11,16 và 20,6-7)

– Vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28)

Như thế, thánh Gioan viết trình thuật hồi sinh Ladarô như để tiên báo về sự phục sinh của Chúa. Tuy nhiên sự phục sinh của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với sự hồi sinh Ladarô:

– Ladarô được hồi sinh là trở lại với đời sống cũ để rồi sớm muộn cũng sẽ chết, còn Chúa Giêsu phục sinh là bước vào sự sống vĩnh hằng, trở thành Đấng hằng sống, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

– Ladarô được hồi sinh với thân xác cũ, còn Chúa Giêsu phục sinh với thân xác vinh hiển, thân xác không còn bị chi phối bởi những điều kiện không gian và thời gian như các trình thuật Thánh Kinh cho biết.

4. Giáo huấn

Câu 25-26 là trọng tâm của cả trình thuật : Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại của tất cả những ai giống như Matta, dám tin rằng Người là “Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa” (câu 27 và 31). Ai có đức tin thì cho dù phải chết cũng sẽ sống. Ai sống mà tin thì sẽ không bao giờ phải chết.

Lời của thượng tế Caipha được thánh Gioan giải thích như lời tiên tri mà chính ông ta không ngờ: “Chúa Giêsu phải chết cho dân, và không chỉ cho dân mà thôi nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi thành một mối” (câu 51-52). Lời này cũng trình bày thần học của Gioan về ơn cứu độ.

An sâu trong trình thuật này là chân lý cao cả về cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu : Người hi sinh mạng sống mình để ban sự sống cho ta. Vì yêu thương Ladarô, Chúa Giêsu đi Bêtania để làm cho ông sống lại; nhưng khi làm như thế, Người phải chấp nhận hiểm nguy (x. các câu 7-8, 16, 50-53). Như đã nói, so sánh trình thuật phục sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa ở chương 20, ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng. Cả hai trình thuật đều nói đến Maria khóc lóc ở mồ (11,31 và 20,11), nấm mồ với tảng đá chắn bên ngoài (11,38 và 20,1), khăn liệm và khăn che đầu (11,44 và 20,6-7), vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28). Dường như thánh sử Gioan viết trình thuật này để báo trước cuộc phục sinh của Chúa. Vì thế, chương 11 chuẩn bị cho ta đọc chương 20.

Chúng ta có thể thắc mắc về sự trì hoãn của Chúa Giêsu (11, 4-7). Tại sao Chúa không lên đường ngay để ngăn cho Ladarô khỏi chết mà lại đợi ông ấy chết rồi mới ra tay? Thánh sử Gioan đã nhìn biến cố từ quan điểm của Thiên Chúa hơn là quan điểm của con người, và điều này được diễn tả qua lời của Chúa Giêsu: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). Dấu lạ đã bày tỏ vinh quang Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa nơi Người Con chí ái của Ngài. Dấu lạ là một cuộc thần hiện. Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu chữa lành mạc khải chính mình qua công trình của Người Con. Như thế, khi bước theo Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng chắc chắn sẽ đạt đến sự sống trọn vẹn.

(Audio: Anh Tuấn)

The post Tuần 112: Tin Mừng Gioan (Chương 6 – 12) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-112-tin-mung-gioan-chuong-6-12/feed/ 1
Tuần 111: Tin Mừng Gioan (Chương 1 – 6) https://www.phimconggiao.com/tuan-111-tin-mung-gioan-chuong-1-6/ https://www.phimconggiao.com/tuan-111-tin-mung-gioan-chuong-1-6/#comments Sat, 14 Feb 2015 12:53:05 +0000 http://www.luca15.com/?p=3682 Tuần 111 –  TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN (chương 1-6) TỔNG QUÁT 1. Tác giả Tin Mừng thứ tư Chỉ trong phần II của sách Tin Mừng thứ tư (13,23-25; 19,26; 20,2-8), đọc giả mới thấy nhắc đến “người môn đệ...

The post Tuần 111: Tin Mừng Gioan (Chương 1 – 6) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 111 –  TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN (chương 1-6)

TỔNG QUÁT

Tuần 111 –  TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN (chương 1-6)

1. Tác giả Tin Mừng thứ tư

Chỉ trong phần II của sách Tin Mừng thứ tư (13,23-25; 19,26; 20,2-8), đọc giả mới thấy nhắc đến “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến” hoặc “người môn đệ khác”. Nhưng không có chỗ nào nói rõ tên người môn đệ ấy là Gioan. Tác phẩm chỉ cho biết người môn đệ này rất gắn bó với thánh Phêrô, ông ở bên cạnh Đức Maria trên đồi Golgotha, “ông đã thấy và đã làm chứng” (19,35). Dựa vào Tin Mừng nhất lãm, người ta biết ba môn đệ gần gũi Chúa Giêsu nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mc 5,37; 9,2; 14,33). Giacôbê đã chết vào năm 44. Chỉ còn lại Phêrô và Gioan. Trong khi đó, sách Tin Mừng thứ tư cho biết Phêrô và “người môn đệ Chúa yêu” gắn bó với nhau, cho nên chắc hẳn người môn đệ này là Gioan.

Ngoài ra, truyền thống chưa bao giờ nghi ngờ việc thánh Gioan là tác giả sách Tin Mừng thứ tư. Thánh Irênê khẳng định: “Sau các môn đệ khác, đến lượt Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu đã tựa đầu vào ngực ông, cũng đã viết sách Tin Mừng khi ở Ephêsô”. Còn thánh Clêmentê Alexandria (210) viết: “Khi thấy những người khác chỉ kể lại những sự kiện bên ngoài, thì Gioan, người sau cùng, được bạn hữu khuyến khích và được Thánh Thần linh ứng, đã viết Tin Mừng thiêng liêng”.

2. Lược đồ Tin Mừng Gioan

THÁNH THI MỞ ĐẦU (1,1-18)

PHẦN I : SÁCH CỦA NHỮNG DẤU LẠ (1,19 – 12,50)

I. Khi mạc khải khởi đầu (1,19-51)

1. Gioan tẩy giả làm chứng về bản thân (1,19-28)
2. Gioan tẩy giả làm chứng về Chúa Giêsu (1,29-34)
3. Các môn đệ của Gioan đến với Chúa Giêsu (1,35-51)

II. Từ Cana đến Cana (2,1 – 4,54)

1. Dấu lạ đầu tiên tại Cana : nước hoá thành rượu (2,1-12)
2. Thanh tẩy đền thờ (2,13-22)
3. Chúa Giêsu và Nicôđêmô (3,1-36)
4. Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria và dân Samaria (4,1-42)
5. Dấu lạ thứ hai tại Cana (4,43-54)

III. Chúa Giêsu và những ngày lễ lớn của người Do thái (5,1 – 10,42)

1. Chúa Giêsu và ngày sabát (5,1-47)
2. Chúa Giêsu trong dịp lễ Vượt qua : hoá bánh ra nhiều (6,1-15), đi trên biển (6,16-21), diễn từ về Bánh hằng sống (6, 22-71)
3. Chúa Giêsu trong dịp Lễ Lều (7,1 – 8,59) : Cảnh 1 (7,14-36), cảnh 2 (7,37-52), người phụ nữ ngoại tình (7,53-8,11), cảnh 3 (8,12-59)
4. Tiếp theo Lễ Lều (9,1-10,21) : người mù từ thưở mới sinh (9,1-41), Chúa Giêsu là mục tử nhân lành (10,1-21)
5. Chúa Giêsu trong dịp lễ Cung hiến (10,22-42)

IV. Chúa Giêsu đi đến Giờ của Ngài và vinh quang (11,1-12,50)

1. Phục sinh Lagiarô (11,1-44)
2. Chúa Giêsu bị lên án (11,45-57)
3. Những cảnh chuẩn bị : xức dầu tại Betania (12,1-11), Vào thành Giêrusalem (12,12-29), Giờ của Chúa (12,20-36), diễn từ cuối cùng (12,44-50)

PHẦN II. SÁCH VINH QUANG (13,1 – 20,31)

I. Bữa tiệc ly (13,1-30)

1. Dẫn nhập (13,1-3)
2. Rửa chân (13,4-20)
3. Loan báo sự phản bội (13,21-30)

II. Những diễn từ cuối cùng (13,31-17,26)

1. Diễn từ giã biệt lần I (14,1-31)
2. Diễn từ giã biệt lần II (15-16,33)
3. Lời cầu của Chúa Giêsu (17,1-26)

III. Bài tường thuật thương khó (18,1 – 19,42)

1. Bị bắt trong vườn Cây Dầu (18,1-11)
2. Tại nhà thượng tế Anna (18,12-27)
3. Trước toà Philatô (18,28-19,16)
4. Khổ hình thập giá (19,17-37)
5. Mai táng (19,38-42)

IV. Chúa Giêsu sống lại (20,1-31)

1. Những lần hiện ra (20,1-29) : Maria Madalena, Simon Phêrô và người môn đệ Chúa yêu (20,1-18), với các môn đệ nhưng thiếu Toma (20,19-23), với Toma (20,24-29)
2. Kết luận (20,30-31)

Lời bạt ở chương 21
Mẻ lưới bất thường (21,1-14)
Simon Phêrô và sứ mạng mục tử (21,15-23)

Lời phi lộ (21,24-25)

TIỆC CƯỚI CANA (2,1-12)

Đây là dấu lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm (2,11). Vậy dấu lạ này có ý nghĩa gì? Chắc chắn ý nghĩa căn bản của dấu lạ là với Chúa Giêsu, thời đại Mêsia đã đến. Cái được biến đổi ở đây không chỉ đơn thuần là nước được sử dụng trong đời sống hằng ngày, nhưng là nước được dùng trong những nghi thức thanh tẩy thời Cựu Ước (2,6). Nước ấy không chỉ được biến đổi thành rượu chung chung mà là rượu hảo hạng và tràn trề (những sáu chum, mỗi chum chứa 80 hay 120 lít). Sự phong phú đó là hình ảnh thời đại mêsia (x. Amos 9,13-14; Joel 3,18). Việc biến đổi nước thời Cựu Ước thành rượu thời mêsia cho thấy bữa tiệc cưới không chỉ là tiệc cưới nhưng là hình ảnh bàn tiệc mêsia, và chú rể trong tiệc cưới này chính là Chúa Giêsu (x. 3,29).

Ở đây ta cũng có thể liên tưởng đến mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm Thiên Chúa làm người để nâng con người lên. Trong cử hành phụng vụ Thánh Thể, khi linh mục đổ chút nước vào rượu, ngài thầm thĩ đọc lời nguyện: “Như chút nước này được hoà với rượu nho, xin cho nhân tính chúng con được hoà vào thần tính của Chúa.” Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đảm nhận bản tính loài người và nâng bản tính đó lên tầm cao mới, làm cho con người được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều đó không phải là kết quả của nỗ lực tự nhiên nhưng trước hết và trên hết là ân sủng của Thiên Chúa. Phần vụ của chúng ta là sẵn sàng đáp lại bằng lòng tin, mở rộng tâm hồn để đón nhận ân huệ Thiên Chúa ban như lời Mẹ Maria căn dặn các gia nhân trong tiệc cưới : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).

Trình thuật này cũng thường được chọn đọc trong các thánh lễ hôn phối để giúp người Kitô hữu ý thức rằng Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên thành bí tích, nghĩa là dấu chỉ diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Gíao Hội, đồng thời ban ơn cho đôi vợ chồng để họ có thể sống tình yêu cao cả đó. Càng sống trong một thời đại mà đời sống gia đình bị đe doạ và đổ vỡ rất nhiều, các đôi vợ chồng công giáo càng cần phải làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa, và họ có thể làm được điều đó khi sống theo lời căn dặn của Mẹ Maria : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).

Cuối cùng, Mẹ Maria xuất hiện trong trình thuật như người phụ nữ tinh tế và nhạy bén trước nỗi bối rối của gia đình chủ tiệc. Sự nhạy bén đó phát xuất từ tấm lòng chan chứa yêu thương của Mẹ, vì nhạy bén trước nhu cầu của người khác là nét tinh tế nhất của tình yêu (Jean Guitton). Hơn thế nữa, Mẹ còn tìm cách can thiệp để giúp gia đình đôi tân hôn thoát khỏi cảnh khó khăn. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, người tín hữu xác tín điều đó nên ở khắp nơi và trong mọi thời, họ chạy đến với Mẹ để xin Mẹ trợ giúp ủi an. Ước gì khi đến với Mẹ Maria, ta cũng học được nơi Mẹ sự nhạy bén của tình yêu, nhờ đó cuộc sống gia đình cũng như cộng đoàn sẽ gia tăng niềm vui và an bình.

NGƯỜI PHỤ NỮ XỨ SAMARI (4,1-42)

Sau trình thuật về tiệc cưới Cana, thánh Gioan kể về việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem ((2,13-22) và cuộc đối thoại của Chúa với Nicôđêmô (3,1-21). Những trình thuật này đều có mục đích giới thiệu sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đem đến : rượu mới thời mêsia, đền thờ mới, sự sống mới trong nước và Thánh Thần. Trong trình thuật về người phụ nữ xứ Samari, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu như nguồn nước ban sự sống, và nói đến sự thờ phượng đích thực. Đây là một trình thuật được biên soạn rất công phu, có thể phân đoạn như sau để dễ thấy và dễ hiểu hơn :

Dẫn nhập (4,1-6) : Chúa Giêsu rời Giuđêa để đi Galilê; trên đường qua Samari, ngài
nghỉ ngơi bên bờ giếng.

Cuộc đối thoại thứ nhất (4,7-26) : giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ

– Nước hằng sống (câu 7-15) : từ nước giếng đến nước đem lại sự sống đời đời.

– Thờ phượng trong Thần khí và sự thật (câu 20-26)

Cuộc đối thoại thứ hai (4,31-38) : giữa Chúa Giêsu và các môn đệ

– Lương thực của Chúa Giêsu (câu 31-34) : Thánh ý của Đấng đã sai Thầy

– Mùa gặt (câu 35-38) : “Đồng lúa đã chín vàng…”

Kết luận (4,39-42) : niềm tin của dân Samari “Người thật là Đấng cứu độ trần gian”

Một vài ghi nhận để giúp hiểu bản văn dễ hơn:

Do hoàn cảnh lịch sử, giữa người Do thái và người Samari có mối quan hệ không tốt, nếu không nói là tồi tệ. Do đó người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đến trò chuyện với chị, lại còn xin nước uống (4,6)!

Thông thường, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu bằng những từ ngữ đề cao thần tính của Chúa, nhưng ở đây, ngài lại mô tả Chúa Giêsu rất “người”: mỏi mệt, ngồi ngay bên bờ giếng (4,6). Cả người phụ nữ cũng được mô tả rất “đời” : chị đi kín nước vào giữa trưa (câu 6)! Các phụ nữ khác đã đi lấy nước từ sáng, còn chị này mãi đến trưa mới đi kín nước, chứng tỏ chị có lối sống không giống ai, có lẽ còn bận tiếp chuyện với các ông! Phần kế tiếp của câu truyện cho thấy chị sống khá buông thả. Thế nhưng chính người phụ nữ buông thả này, một khi gặp được Lời Chúa, đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả thành. Lời Chúa có sức biến đổi lạ lùng!

Như đã được học, các sách Tin Mừng không chỉ đơn thuần là sách tiểu sử về Chúa Giêsu nhưng còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của các cộng đoàn. Trình thuật này cũng phản ánh sứ vụ của Giáo Hội đem Tin Mừng đến cho dân Samari như được mô tả trong Cv 8,4-25.

Điều đáng quan tâm là dân Samari đã tin vào Chúa Giêsu không vì bất cứ dấu lạ nào nhưng chỉ vì sức mạnh của Lời: “Số người tin vì lời Đức Giêsu còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ : Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (câu 41-42).

Trình thuật này còn là bài học quý giá cho đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, cách riêng trong mùa Chay. Chúa Giêsu đã dẫn đưa người phụ nữ Samari từ chỗ khát nước đến chỗ khám phá nỗi khát khao sâu xa hơn trong cuộc đời chị, nỗi khát khao mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Cũng thế, trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta giữ chay không chỉ để chu toàn một vài lề luật hay để lập công với Chúa, nhưng ăn chay để khám phá cơn đói sâu xa hơn trong lòng ta, cơn đói mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện để mỗi người nhìn lại lòng mình để khám phá nỗi khát khao : phải chăng chỉ là của cải vật chất? hay còn là tình yêu? Và còn là những gì sâu xa nhất? Ước gì trải nghiệm của thánh Augustino cũng trở thành trải nghiệm của mỗi chúng ta : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”

The post Tuần 111: Tin Mừng Gioan (Chương 1 – 6) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-111-tin-mung-gioan-chuong-1-6/feed/ 1
Tuần 110: Khải Huyền (Chương 12 – 22) https://www.phimconggiao.com/tuan-110-khai-huyen-chuong-12-22/ https://www.phimconggiao.com/tuan-110-khai-huyen-chuong-12-22/#comments Sat, 14 Feb 2015 12:41:31 +0000 http://www.luca15.com/?p=3680 Tuần 110 –  KHẢI HUYỀN (Chương 12-22) NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ CON MÃNG XÀ (12,1-18) 1. Người phụ nữ Từ lâu, hình ảnh người phụ nữ trong chương 12 đã được các Kitô hữu đồng hoá với Đức Maria, tuy nhiên...

The post Tuần 110: Khải Huyền (Chương 12 – 22) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 110 –  KHẢI HUYỀN (Chương 12-22)

NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ CON MÃNG XÀ (12,1-18)

Tuần 110: Khải Huyền (Chương 12 – 22)

1. Người phụ nữ

Từ lâu, hình ảnh người phụ nữ trong chương 12 đã được các Kitô hữu đồng hoá với Đức Maria, tuy nhiên nên hiểu là Gíao Hội, Dân Chúa, “những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (câu 17). Những chi tiết trong thị kiến như mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, triều thiên 12 ngôi sao… là những chi tiết được tác giả rút ra từ những truyền thuyết của các dân cũng như những hình ảnh Thánh Kinh (vd. Anh sáng Chúa, 12 chi tộc…). Người con được sinh ra là Đấng Mêsia, Đấng “sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (câu 5).

2. Mãng xà

Con mãng xá được mô tả ở đây giống như trong Daniel 7,7; 8,10 : nhiều đầu tượng trưng nhiều vương quốc; đuôi quét tinh tú nói đến tính huỷ diệt của nó. Mãng xà là biểu tượng sự thù nghịch chống đối Thiên Chúa.

3. Trốn vào sa mạc (12,6)

Tiên tri Elia ngày xưa nhiệt thành làm chứng cho Chúa và bị bà hoàng Jezabel săn đuổi, phải trốn vào hoang địa (1V 17,1-7; 19,5-7). Người phụ nữ ở đây cũng phải trốn vào sa mạc trước sự tấn công của con mãng xà, ở đó “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở để bà được nuôi dưỡng ở đó” (12,6).

4. Giao chiến trên trời

Cuộc chiến của Kitô hữu với sự ác đã bắt nguồn từ cuộc chiến giữa Tổng lãnh thiên thần Micae và Satan. Satan bị đuổi khỏi trời nhưng nó tiếp tục tấn công tín hữu trên trái đất, là “những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (12,17). Vì thế, dù sống trong hoàn cảnh nào, nếu muốn thuộc về Chúa trọn vẹn, người Kitô hữu phãi chấp nhận chiến đấu, cuộc chiến nội tâm liên lỉ. Người Kitô hữu bước vào cuộc chiến đó với niềm tin tưởng lạc quan, vì nếu Tổng lãnh thiên thần Micae đã thắng Satan, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ thắng. Micae vẫn được coi là người canh giữ Dân Chúa và là đối thủ của Satan (Dan 10,13,21; 12,1). Hình ảnh Người phụ nữ “được ban cho cánh đại để bay vào sa mạc” diễn tả sự che chở của Chúa (Xh 19,4; Dnl 32,11), và người Kitô hữu luôn vững tâm tin tưởng vào tình thương che chở này trong mọi hoàn cảnh.

TRỜI MỚI ĐẤT MỚI (chương 21)

1. Trời mới đất mới (21, 1-5)

Tác giả trình bày thị kiến về trời mới đất mới, thay thế thế giới cũ đã qua đi: “trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa” (Kh 21,1; xem Isaia 65,17). Đó là một thế giới lý tưởng: “Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21, 4). Trung tâm của thế giới mới là thành thánh Giêrusalem (x. Is 52,1-3), “nhà tạm Thiên Chúa ở giữa loài người” (Kh 21,3). Tiếng nói từ trên ngai phán rằng mọi lời hứa của Thiên Chúa nay được hoàn thành: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (21,5). Trong Isaia 43, 18-19, Chúa phán bảo Israel đừng nhớ lại những chuyện cũ vì Ngài đang thực hiện “điều mới”. Ở đây, sách Khải Huyền công bố lời hứa đó được hoàn thành.

2. Giêrusalem mới, tân nương của Chiên Con (21,9-21)

Những hình ảnh trong thị kiến này được rút ra từ sách Ezekiel: thành được xây trên núi (Ez 40, 2), tràn ngập vinh quang Thiên Chúa (43, 2-4), những chi tiết về tường thành (48, 31-35). Các thiên thần canh giữ cửa cũng đã có trong Ez 49,12. Trong sách Ezekiel, 12 cửa tượng trưng cho 12 chi tộc Israel, còn trong sách Khải Huyền, 12 cửa tượng trưng cho 12 tông đồ. Cũng giống như trong sách Ezekiel chương 40, thiên thần lấy thước đo cửa và tường thành. Việc đo đạc này muốn đề cao kích thước hoàn hảo của thành thánh.

3. Thiên Chúa hiện diện trong thành (21,22-27)

Cùng với những chi tiết được rút ra từ sách Ezekiel, ở đây, sách Khải Huyền trình bày một chi tiết hoàn toàn khác và là điều hết sức quan trọng, đó là “trong thành, không có đền thờ” (Kh 21, 22) vì “Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành”. Sự hiện diện của Thiên Chúa và Chiên Con làm cho cả thành là đền thờ. Sau đó, tác giả vận dụng Isaia 60, 1-20 để mô tả: Vinh quang Chúa tràn ngập đến độ không cần các thiên thể chiếu sáng (Is 60,19-20); các vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới; cửa thành không đóng vì chẳng có đêm; những gì ô uế không được vào thành, chỉ có người công chính sống trong đó (21, 27).

4. Nước và cây sự sống (22,1-5)

Thị kiến về Giêrusalem mới được kết thúc bằng những hình ảnh về phúc lành và sự bất tử dành cho những người sống trong đó. Nước chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và Chiên Con (22,1) nhắc lại dòng nước chảy ra từ đền thờ trong Joel 4,18 cũng như Ezekiel 47. Cây sự sống trong sách Sáng Thế 2,9 được phối hợp với cây bên dòng suối trong Ezekiel 47,12. Lá của những cây này được dùng làm thuốc chữa lành cho dân ngoại (22, 2). Cũng như những gì ô uế không được đưa vào thành thánh, thì cũng không còn lời nguyền rủa nào ở đây (22,3).

5. Sứ điệp cho đời sống đức tin

Thế giới này sẽ kết thúc. Lịch sử nhân loại sẽ đến điểm tận cùng. Điểm tận cùng ấy không phải là thế giới u buồn bị tội lỗi và sự dữ thống trị, nhưng là trời mới đất mới, tràn ngập vinh quang Thiên Chúa và là cõi bất tử. Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng viết: “Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng không biết cách thức biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh một thế giới lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Đức Kitô, và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại, và toàn thể thụ tạo mà Thiên Chúa dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân” (số 39).

Điều quan trọng là hãy bắt đầu từ hôm nay lối sống của người công chính, thay vì chỉ sống và hành động theo những tham vọng ích kỷ của xác thịt: “Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng Cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành! Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài” (Kh 22, 12-15).

The post Tuần 110: Khải Huyền (Chương 12 – 22) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-110-khai-huyen-chuong-12-22/feed/ 1
Tuần 109: Khải Huyền (Chương 1 – 11) https://www.phimconggiao.com/tuan-109-khai-huyen-chuong-1-11/ https://www.phimconggiao.com/tuan-109-khai-huyen-chuong-1-11/#comments Sat, 14 Feb 2015 12:31:40 +0000 http://www.luca15.com/?p=3678 Tuần 109 KHẢI HUYỀN (Chương 1-11) TỔNG QUÁT Từ thời tiên tri Daniel vào cuối Cựu Ước cho đến thời sách Khải Huyền trong Tân ước, người ta thấy xuất hiện nhiều loại văn bản trình bày các thị kiến. Như...

The post Tuần 109: Khải Huyền (Chương 1 – 11) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 109 KHẢI HUYỀN (Chương 1-11)

TỔNG QUÁT

Tuần 109: Khải Huyền (Chương 1 – 11)

Từ thời tiên tri Daniel vào cuối Cựu Ước cho đến thời sách Khải Huyền trong Tân ước, người ta thấy xuất hiện nhiều loại văn bản trình bày các thị kiến. Như thế, các đọc giả vào thời đó đã quen với lối văn này, đang khi thể văn này lại xa lạ với chúng ta ở cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Cũng vì thế, sách Khải Huyền có nguy cơ bị vận dụng để trình bày những ý tưởng và quan điểm không phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội, vd. loan báo ngày tận thế đã gần kề, kể cả địa điểm và ngày giờ chính xác! Điều lạ là đã nhiều lần loan báo sai nhưng vẫn tiếp tục thu hút được nhiều người tin theo!

Cả sách Daniel và sách Khải Huyền đều được biên soạn nhằm gửi đến cộng đoàn tín hữu đang bị bách hại. Vào thời sách Daniel được viết ra, đế quốc Syria đang thống trị đất Palestina và họ ép buộc dân phải từ bỏ Do thái giáo. Nhiều người đã bị giết vì không tuân theo. Suy tư về ý nghĩa của những hi sinh này đã dẫn đến chỗ hình thành nền thần học về tử đạo, nhìn máu của các vị tử đạo như giá chuộc cho tội lỗi của những người Do thái đã không dám trung thành với tôn giáo của cha ông. Nền thần học này cũng góp phần quan trọng trong Kitô giáo thời sơ khai khi giải thích về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu. Đó là cái chết cứu độ, chuộc tội cho toàn thế giới. Vì thế, sách Khải Huyền mô tả Chúa Giêsu như vị tử đạo (chứng nhân) trung tín, và tác giả mượn những hình ảnh trong sách Daniel về các vị tử đạo để khuyến khích các Kitô hữu giữ vững can trường trong cơn bách hại. Cũng như vua Antiôkô đã thất bại trong việc tiêu diệt Do thái giáo, thì con thú dữ thời mới là đế quốc Rôma cũng sẽ thất bại trong tính toán của nó nhằm tiêu diệt các Kitô hữu. Hãy để ý hình ảnh trong sách Daniel về “một ai đó giống như Con Người” đang tiến đến ngai toà Thiên Chúa (chương 7). Trong sách Daniel, hình ảnh Con Người nhận quyền thống trị trên toàn thế giới muốn nói đến các vị tử đạo của Israel, nhưng sách Khải Huyền lại áp dụng hình ảnh này cho Chúa Giêsu.

Như thế, đâu là những sứ điệp quan trọng mà sách Khải Huyền muốn trao gửi ?

Trước hết, sách Khải Huyền được gửi đến cộng đoàn tín hữu đang bị bách hại. Câu hỏi lớn nhất là làm sao sống đức tin Kitô giáo trong một môi trường thù nghịch như thế? Vào thời sách Khải Huyền được biên soạn, môi trường thù nghịch là sự bắt bớ và bách hại của đế quốc Rôma đối với các Kitô hữu. Ngày nay, có thể không còn sự bắt bớ và bách hại như thế nhưng không có nghĩa là môi trường sống hôm nay hoàn toàn thuận lợi cho các Kitô hữu. Hãy thử nhìn vào cuộc sống xã hội, kể cả đường lối của các nhà cầm quyền, xem có phù hợp với những giá trị Phúc âm không. Cách nào đó, ta vẫn phải sống trong môi trường thù nghịch với Phúc âm, và vì thế, sứ điệp của sách Khải Huyền vẫn còn thiết thực cho ta.

Không những để bảo toàn đức tin, sách Khải Huyền còn thúc bách ta làm chứng cho đức tin. Làm chứng bằng cuộc sống trung tín với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Trong thời đại ngày nay, ta còn cần phải làm chứng bằng cách cho người khác biết lý do tại sao ta tin và hi vọng. Muốn như thế, chính mình phải không ngừng đào sâu đức tin về mặt thiêng liêng cũng như về mặt tri thức.

Cuối cùng, sách Khải Huyền thúc đẩy chúng ta giã từ sự bi quan để bước đi trong niềm lạc quan được xây dựng vững chắc trên cơ sở đức tin và đức cậy. Đối diện với những cái ác dường như đang tràn ngập trong đời, như bao người khác, ta cũng dễ rơi vào thái độ bi quan vì nghĩ rằng mọi sự đã được an bài, không thể thay đổi điều gì; từ đó rơi vào thái độ bi quan, thất vọng. Thế nhưng Kitô hữu đích thực là người xác tín rằng Chúa Kitô đã chiến thắng tử thần, và tiếng nói cuối cùng không phải là sự chết mà là sự sống, không phải hận thù mà là tình yêu, vì thế ngay giữa những thử thách và đau thương của cuộc sống, người Kitô hữu được mời gọi bước tới trong tin tưởng và cậy trông : Marana tha, Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến.

THƯ CHO CÁC GIÁO HỘI (1,9 – 3,22)

Trong phần này, có 7 lá thư cho 7 giáo hội : Ephêsô (2, 1-7), Smyrna (2, 8-11), Pergamô (2, 12-17), Thyatira (2, 18-29), Sardis (3, 1-6), Philadelphia (3, 7-13), Laođicêa (3,14-22). Mỗi thư đều được trình bày theo cấu trúc tương tự :
1. Lệnh phải viết : “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh …”
2. Công thức trình bày Chúa Giêsu như Đấng ban sứ điệp : “Đây là lời của Đấng …”
3. Phần chính khởi đầu bằng lời “Ta biết” với những yếu tố chính : “Ta biết” tình hình của cộng đoàn – “Nhưng Ta chống lại ngươi…” – Mệnh lệnh hoán cải – Lời hứa và khuyến khích.
4. Kêu gọi hãy nghe : “Ai có tai thì hãy nghe…”
5. Phần thưởng cho người chiến thắng.

Trong sách Khải Huyền, số 7 mang tính biểu tượng. Một vài tác giả cổ xưa giải thích số 7 tượng trưng cho 7 hành tinh. Hoàng đế Rôma được mô tả như người nắm giữ 7 ngôi sao (7 hành tinh), diễn tả quyền thống trị phổ quát. Do đó, hình ảnh Chúa Giêsu cầm 7 ngôi sao (1,16) diễn tả quyền thống trị của Chúa, đồng thời là một thách thức với quyền bính của hoàng đế Rôma lúc đó. Trong văn mạch của chương I Khải Huyền, số 7 ở đây nói đến 7 giáo hội (câu 20).

Khi trình bày về Chúa Giêsu, tác giả vận dụng nhiều hình ảnh trong Cựu Ước để làm nổi bật thần tính và quyền bính của Chúa, đặc biệt là hình ảnh Con Người trong Daniel 7,13-14 và hình ảnh Thiên Chúa, Vị Trưởng Lão, trong Daniel 7,9-10. Những hình ảnh này muốn nhấn mạnh Chúa Giêsu là Đấng thuộc thiên giới, Người vừa là nguồn mạc khải vừa thống trị toàn thể vũ trụ. Lưỡi gươm phóng ra từ miệng Người (1,16) có lẽ ám chỉ lưỡi gươm Lời Chúa (x. Is 49,2).

Phản ứng đầu tiên của tác giả là sợ hãi, cũng là phản ứng được nhấn mạnh trong nhiều thị kiến Cựu Ước (Is 6,5; Ez 1,28 Daniel 8,18). Sau đó là sự trấn an : “Đừng sợ. Ta là Đầu và là Cuối… Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thưở muôn đời”. Chủ đề Sống – Chết là chủ đề xuyên suốt sách Khải Huyền. Chúa Giêsu đã chết nhưng nay Người sống. Còn những kẻ bất trung có thể đang sống nhưng sau này sẽ chết khi bị kết án. Nếu người Kitô hữu xác tín rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô đã đảo lộn hai cực sống chết (sống thành chết – chết thành sống) thì chúng ta sẽ thoát được nỗi âu lo sợ hãi. Điều quan trọng là trung tín với Đấng đã chết nhưng nay đang sống và là Đấng Hằng Sống.

Mặc dù những lá thư được gửi đến cho những cộng đoàn cụ thể nhưng thật ra những vấn đề được đề cập đến ở đây là những vấn đề chung cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho đời sống thiêng liêng của mỗi Kitô hữu. Vì thế, đọc lại từng lá thư để khám phá những khuyết điểm của mình mà sửa đổi là điều rất hữu ích.

Những khuyết điểm cần cảnh giác :
– Đánh mất tình yêu thưở ban đầu (2,4)
– Sợ đau khổ (2,10)
– Chạy theo lề thói ngoại giáo (2,14)
– Gian dâm và ăn đồ cúng (2,20)
– Đang sống mà thực ra đã chết (3,1)
– Dối trá (3,9)
– Chẳng nóng chẳng lạnh (3,16)

BẢY ẤN (4,1 – 8,5) và BẢY TIẾNG KÈN (8,6 – 11,19)

Trong phần này, có rất nhiều thị kiến chồng chéo lên nhau. Điều cần ghi nhận là theo quan điểm của tác giả cũng như đọc giả lúc đó, tất cả những thị kiến này đã được thực hiện rồi. Khi trình bày các thị kiến, tác giả không nhắm mục đích tiên báo những biến cố lịch sử sẽ xẩy ra vào thời đại sau này. Vì thế, nên tránh sử dụng những hình ảnh và thị kiến này để giải thích những biến cố trong thời hiện tại. Sách Khải Huyền chỉ muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng : Thiên Chúa là Đấng làm chủ lịch sử và chính Ngài sẽ xét xử mọi sự. Chân lý đó đã được thực hiện trong thời của tác giả và chân lý ấy vẫn mãi trường tồn, bất kể lịch sử nhân loại diễn tiến ra sao. Vì thế, điều quan trọng là trong mọi hoàn cảnh, hãy giữ niềm trung tín với Thiên Chúa.

The post Tuần 109: Khải Huyền (Chương 1 – 11) appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-109-khai-huyen-chuong-1-11/feed/ 1
Tuần 108: Các thư của Thánh Gioan https://www.phimconggiao.com/tuan-108-cac-thu-cua-thanh-gioan/ https://www.phimconggiao.com/tuan-108-cac-thu-cua-thanh-gioan/#respond Sat, 14 Feb 2015 12:22:06 +0000 http://www.luca15.com/?p=3676 Tuần 108: CÁC THƯ CỦA THÁNH GIOAN —-o0o—- THƯ 1 GIOAN Lá thư không cho biết tên tác giả nhưng ngôn ngữ sử dụng cũng như những điểm nhấn thần học rất giống với Tin Mừng thứ tư. Có lẽ lá thư...

The post Tuần 108: Các thư của Thánh Gioan appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 108: CÁC THƯ CỦA THÁNH GIOAN

—-o0o—-

Tuần 108: Các thư của Thánh Gioan

THƯ 1 GIOAN

Lá thư không cho biết tên tác giả nhưng ngôn ngữ sử dụng cũng như những điểm nhấn thần học rất giống với Tin Mừng thứ tư. Có lẽ lá thư đã được biên soạn vào thời kỳ muộn hơn so với Tin Mừng thứ tư, khi các đối thủ của Giáo Hội không chỉ là những người bên ngoài mà là những người ở trong Giáo Hội. Các nhà chú giải cho rằng lá thư này được viết khoảng năm 100. Một vài học giả nghĩ rằng tác giả lá thư này cũng chính là người đã viết chương 21 trong Tin Mừng thứ tư.

Lý do lá thư được biên soạn có thể tìm thấy ở 2,19: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ của chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta, vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai cũng là người của chúng ta”. Câu này cho thấy sự chia rẽ trong cộng đoàn và là sự chia rẽ trầm trọng đến độ tác giả nói đến thứ tội không đưa đến cái chết, và lại có “thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy” (5,16). Đó là “những kẻ tìm cách làm cho anh em đi lạc đường” (2,26), những tiên tri giả (4,1), những kẻ không mang nơi mình thần khí dẫn đến sự thật nhưng là thứ “thần khí làm cho sai lầm” (4,6).

Chủ đề chính của lá thư là bản tính và công trình của Đức Giêsu Kitô. Tác giả nhấn mạnh Đức Giêsu là Đấng Kitô: “Ai là kẻ dối trá nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô? Kẻ ấy là tên Phản Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con” (2,22); “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra” (5,1). Đấng ấy đã đến trong xác phàm: “Căn cứ vào điều này mà anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên xác phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (4,2). Người là Đấng Cứu độ (3,16; 4,14), đã dâng mình làm của lễ đền tội chúng ta: “Nếu chúng ta đi trong ánh sáng, cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Ngài, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1,7; 4,10). Người là Con Thiên Chúa: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy ở lại trong Thiên Chúa” (4,15; 5,5; 10,11-13). Người là Đấng đã đến không chỉ trong nước mà thôi nhưng trong nước và máu (5,6).

Sự kiện tác giả nhấn mạnh chủ đề này cho phép chúng ta suy đoán rằng lúc ấy, trong cộng đoàn, có những người không nhìn nhận nhân tính nơi Chúa Giêsu và công trình cứu độ của Người. Đọc lại lịch sử Giáo Hội, không lâu sau đó, Cêrintô chủ trương Đức Kitô siêu nhiên đã ngự xuống con người Giêsu vào dịp chịu Phép Rửa, để Giêsu mạc khải Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ công khai, rồi trước khi ngài qua đời thì Đấng Kitô siêu nhiên rời khỏi con người Giêsu. Nếu những đối thủ của thư 1 Gioan chưa đi đến lập trường rõ ràng như Cêrintô thì họ cũng đang trên đường đi đến đó. Chính vì thế, thư 1 Gioan nhấn mạnh đến xác phàm, sự chết, công trình cứu độ, lễ dâng đền tội cho cả thế gian.

Về đời sống luân lý, thư 1 Gioan trình bày giáo huấn đơn giản, tập trung vào hai từ: Tin và Yêu. Tác giả nhấn mạnh rằng những gì các tín hữu tin là những điều đã được rao giảng từ ban đầu: “Ước chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em” (2,24; 3,11). Đồng thời chúng ta chỉ có thể yêu mến Thiên Chúa nếu chúng ta yêu thương nhau. Tất cả những giáo huấn này được tóm lại trong một câu: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (3,23).

NGUỒN MẠCH ĐỨC ÁI (4, 7-21)

Thiên Chúa là Tình Yêu (4,8.16) và Ngài đã yêu thương chúng ta trước (4, 10.16.19). Ở 1,5, “Thiên Chúa là ánh sáng”; ở đây, “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Thiên Chúa là Tình Yêu, không phải cách trừu tượng nhưng là trong ánh sáng, qua những hoạt động cụ thể của Ngài. Ngài tạo dựng, cứu độ, xét xử, tất cả là do tình yêu và trong tình yêu.

Tình yêu của Chúa được thể hiện qua việc ban tặng Người Con làm Đấng Cứu độ: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (4,9); “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu độ thế gian” (4,14). Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta dường ấy, nên chúng ta phải yêu thương nhau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (4,12). Chỉ khi chúng ta yêu thương tha nhân hữu hình, thì mới có thể yêu Thiên Chúa vô hình: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em họ trông thấy, thì không thể yêu mến Đấng Thiên Chúa mà họ không thấy” (4,20).

Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và tình yêu chúng ta dành cho Chúa cũng như cho nhau khiến ta bước đi trong an vui, không sợ hãi: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; tình yêu hoàn hảo loại trừ sự sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt, và sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (4,18). Ngược lại, người không yêu thương thì chẳng biết gì về Thiên Chúa: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (4,8).

The post Tuần 108: Các thư của Thánh Gioan appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-108-cac-thu-cua-thanh-gioan/feed/ 0
Tuần 107: Thư thứ hai của Thánh Phêrô và thư Thánh Giuđa https://www.phimconggiao.com/tuan-107-thu-thu-hai-cua-thanh-phero-va-thu-thanh-giuda/ https://www.phimconggiao.com/tuan-107-thu-thu-hai-cua-thanh-phero-va-thu-thanh-giuda/#comments Fri, 30 Jan 2015 17:36:47 +0000 http://www.luca15.com/?p=3624 Tuần 107: THƯ CỦA THÁNH GIUĐA & THƯ 2 PHÊRÔ —-o0o—- CỦNG CỐ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN TRONG HỘI THÁNH (Thư Giuđa) Ngay câu mở đầu, tác giả giới thiệu về mình là “Giuđa, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô,...

The post Tuần 107: Thư thứ hai của Thánh Phêrô và thư Thánh Giuđa appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
Tuần 107: THƯ CỦA THÁNH GIUĐA & THƯ 2 PHÊRÔ

—-o0o—-

CỦNG CỐ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN TRONG HỘI THÁNH (Thư Giuđa)

Tuần 107: Thư thứ hai của Thánh Phêrô và thư Thánh Giuđa

Ngay câu mở đầu, tác giả giới thiệu về mình là “Giuđa, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô, anh em với ông Giacôbê”, đồng thời xác định mục đích của lá thư: “để khuyên nhủ anh em chiến đấu cho đức tin đã được truyền lại cho dân thánh một lần là đủ” (câu 3).

Giáo Hội luôn phải đối diện với những khó khăn thử thách. Thử thách được nói đến trong lá thư này không đến từ bên ngoài nhưng từ trong nội bộ Giáo Hội: “Có những người đã len lỏi vào, những người từ lâu đã bị ghi trước vào danh sách những kẻ bị lên án, những kẻ vô luân này đã biến ân sủng của Thiên Chúa chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô, họ chối bỏ Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, vị Chúa Tể duy nhất” (câu 4). Tác giả liệt kê nhiều hành vi của những kẻ vô luân này : làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quyền của Chúa (câu 8); nói phạm đến những điều họ không biết (câu 10); chè chén mà không biết xấu hổ, chỉ lo cho bản thân (câu 12); gây chia rẽ, sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí (câu 19). Tác giả dùng nhiều hình ảnh để diễn tả hậu quả họ phải chịu : mây không có nước, cuốn theo chiều gió (câu 12); cây cuối mùa, không trái, bị nhổ tận gốc; sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi; những vì sao lạc, u ám tối tăm (câu 13).

Đối diện với những thử thách đó, tác giả kêu gọi các tín hữu nhớ lại lời các Tông đồ: “Vào thời cuối cùng, sẽ có những kẻ nhạo báng, sống theo những dục vọng vô luân của mình” (câu 17). Đồng thời, phải “xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, hãy cố gắng sống trong tình thương của Thiên Chúa” (câu 20-21). Một đàng, các tín hữu phải thương xót kẻ có tội; đàng khác phải xa tránh lối sống của những kẻ vô luân: “sợ hãi, gớm ghét ngay cả chiếc áo đã bị thân xác họ làm cho ra ô uế” (câu 23).

ĐỀ PHÒNG CÁC THẦY DẠY GIẢ HIỆU (2Phêrô 2, 1-9)

Ở phần đầu lá thư, thánh Phêrô viết: “Bao lâu tôi còn sống cuộc đời chóng qua này, tôi phải nhắc nhở để thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều này, như Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta cũng đã tỏ cho tôi biết” (2, 13-14). Vì thế có thể xem những giáo huấn sau đó như di chúc để lại. Tuy nhiên có nhà chú giải cho rằng đây chỉ là một cách nói nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của đề tài được bàn đến trong thư 2 Phêrô. Lúc đó, trong Giáo Hội, có những người giảng dạy sai lạc và khích bác giáo huấn của Giáo Hội. Ví dụ, họ cho việc rao giảng về Ngày quang lâm của Chúa là chuyện hoang đường (1,16; 3,3-4).

Vì thế, thánh Phêrô cảnh giác các tín hữu trước những thầy dạy giả hiệu (2,1). Họ được so sánh với những tiên tri giả trong Cựu Ước là những người rao giảng hòa bình và ổn định đang khi các tiên tri thật rao giảng về án xử của Thiên Chúa (xem Giêrêmia 4,10; 5,12; 6,14; 14,13-14). Ngài gọi họ là những người “chối bỏ vị Chúa tể đã chuộc họ về” (2,1). Ngày nay, có thể gọi là những người vô thần thực tiễn. Họ không chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa nhưng cho rằng vị Thiên Chúa ấy chẳng quan tâm gì đến đời sống con người. Thánh vịnh nhiều lần nói đến những kẻ tội lỗi chủ trương rằng “Không có Thiên Chúa” (Tv 10,11; 14,1; 73,11), không phải sợ Chúa xét xử, cho nên sống phóng túng, tội lỗi. Ở đây, thánh Phêrô cũng cảnh giác các tín hữu: “Nhiều người sẽ học đòi các trò dâm đãng của họ, và vì họ, con đường sự thật sẽ bị phỉ báng. Vì tham lam, họ dùng lời lẽ gạt gẫm anh em để trục lợi. Aùn phạt họ đã sẵn sàng từ lâu và họa diệt vong đã gần kề” (2,2-3).

Để chứng minh Thiên Chúa sẽ xét xử thế gian, tác giả đưa ra 3 ví dụ: những thiên thần phạm tội, ông Nôê, ông Lót và hai thành Sôđôma, Gômôra. Những ví dụ này có thể được rút ra từ thư Giuđa 5-7, nhưng tác giả thư 2 Phêrô sắp xếp khác để trình bày sứ điệp mới. Sứ điệp đó là : “Chúa cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách, và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét, nhất là những kẻ vì ham muốn những điều ô uế mà sống theo xác thịt, những kẻ khinh dể chủ quyền của Chúa” (2,9-10). Không thể chối bỏ sự xét xử của Chúa như những thầy dạy giả hiệu rao giảng. Sự chối bỏ đó chỉ dẫn con người đến lối sống vô luân và họa diệt vong.

(Audio: Anh Tuấn)

The post Tuần 107: Thư thứ hai của Thánh Phêrô và thư Thánh Giuđa appeared first on Phim Công giáo HD.

]]>
https://www.phimconggiao.com/tuan-107-thu-thu-hai-cua-thanh-phero-va-thu-thanh-giuda/feed/ 1